Danh nhân nước Việt với giai thoại về chó

Đời sống văn hóa - Ngày đăng : 10:00, 18/02/2018

Nhân Tết Mậu Tuất 2018, xin kể ra những giai thoại về danh nhân nước Việt và chó.

Câu đối “Chó khôn chớ cắn càn”

Khi còn nhỏ, Trạng Quỳnh (1677-1748), tên thật là Nguyễn Quỳnh, đã nổi tiếng thông minh.

Một hôm nhà Quỳnh có giỗ, đang làm thịt lợn. Ông Tú Cát đến chơi thấy Quỳnh đứng xem mổ lợn liền chạy tới bẹo tai và ra cho một vế đối bảo hễ đối được mới tha.

Quỳnh xuýt xoa kêu đau và giục ra câu đối ngay.

Ông Tú bèn mượn hai quẻ trong bát quái đọc rằng:

-Lợn cấn ăn cám tốn.

Quỳnh không cần nghĩ đối luôn:

-Chó khôn chớ cắn càn.

Ông Tú chịu là giỏi, tha ngay không bẹo tai Quỳnh nữa.

Đương thời đã có câu: “Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam”, nghĩa là thiên hạ không có người thứ ba giỏi như hai ông này.

Năm 1696, Nguyễn Quỳnh thi đỗ Giải nguyên. Triều đình bổ nhiệm ông làm giáo thụ các huyện Thạch Thất, Phúc Lộc (Sơn Tây), tiếp đến làm huấn đạo phủ Phụng Thiên ở kinh thành Thăng Long.

Năm 1718, ông đỗ khoa Sỹ vọng, được bổ nhiệm làm tri phủ Thái Bình. Lúc đó là dưới thời vua Lê Ý Tông và chúa Trịnh Cương.

Tờ trình “Thượng hạ giai cẩu”

Văn thần Phan Văn Nhã được lệnh vua Tự Đức (1829 – 1883) chấp bút bài văn “Ngọc Diệp” liệt kê và ca ngợi các bậc tài hoa, cành vàng lá ngọc trong triều đình. Thảo xong, Phan Văn Nhã tổ chức buổi tiệc trình làng để cốt khoe khoang tài viết của mình với các quan lại.

Bài văn “Ngọc Diệp” được chuyền tay cho các quan xem. Đến tay quan Thượng thư Võ Phạm Khải, ông này liếc xem và phán một câu nặng nề: “Văn thế này thì đến chó cũng làm được”.

Phan Văn Nhã tức lên, và đôi bên hết võ mồm lại đến thượng cẳng tay hạ cẳng chân.

Sự việc đến tai vua Tự Đức. Vua Tự Đức bèn mời Cao Bá Quát  (1809 – 1855) lên hỏi vì ông là “nhân chứng” của vụ việc.

Vì biết vua Tự Đức thích thơ nên Cao Bá Quát làm một tờ trình về vụ việc nói trên bằng… thơ.

“Tiền, Quát bất tri
Hậu, Quát bất tri
Trung gian Quát chí
Đản kiến:
Thượng bàn hô cẩu
Hạ bàn hô cẩu!
Thượng hạ giai cẩu!
Lưỡng tương đấu ẩu
Thần gián bất đắc
Thần kiến thế nguy
Thần hoảng thần tẩu!”

Dịch nghĩa:

Trước Quát không biết
Sau Quát chẳng hay
Nửa chừng Quát đến
Quát thấy thế này:
Bàn trên bảo chó!
Bàn dưới bảo chó!
Trên dưới đều chó
Rồi choảng nhau luôn
Thần can chẳng bỏ
Thần thấy thế nguy
Thần sợ thần chạy!

Vụ “Chó cắn hạc vua”

Vua nhà Thanh (Trung Quốc) có tặng vua Tự Đức một con hạc thuộc loại hiếm có. Vua Tự Đức quý lắm, cho đeo trước cổ tấm thẻ bài ghi “Thiên Tử Hạc” (hạc của vua nuôi). Thiên Tử Hạc quen hơi người nên được thả trong Vườn Thượng uyển.

Ngày nọ, con Thiên Tử Hạc bay ra khỏi Hoàng cung. Nó lạc vào vườn một thường dân nên bị chó của nhà này cắn chết. Vua Tự Đức thấy mất con hạc mình yêu quý, dày công tốn sức chăm nuôi nên truyền cho thuộc cấp điều tra. Cấp dưới điều tra biết được việc chó nhà dân cắn chết hạc của vua nuôi nên đã quay về trình báo. Vua Tự Đức thấy hạc quý đã chết nên nổi giận, truyền cho Bộ Hình luận tội. Bộ Hình kết án chủ chó phải tội tử hình và bị tịch thu toàn bộ gia sản.

Việc xử án của Bộ Hình được quan Ngự Sử Phạm Đan Quế (1836-1876) biết được. Sau khi xem xét các tình tiết, ông xin yết kiến vua Tự Đức và trình một bản tấu. Bản tấu ấy như sau:

“Hạc bất năng ngôn
Khuyển vô thức tự
Hạc nhập dân viên
Khuyển trung vu chủ
Điểu, Thú đấu tranh
U minh hà dự
Khuyển phệ hạc tử
Tôi quy vu chủ
Hạc trắc khuyển tử
Tường hà luật xử?”

Dịch nghĩa:

“Hạc chẳng biết nói
Chó không biết chữ
Hạc vào vườn dân
Chó trung với chủ
Chim, thú đánh nhau
Tối sáng không rõ
Chó cắn chết hạc
Tội quy cho chủ
Hạc mổ chết chó
Luật xử thế nào?”

Nghe xong, vua Tự Đức cấp tốc hạ lệnh hủy bỏ bản án và không bàn đến nữa.

Bởi đối với vua Tự Đức, những lời của Phạm Đan Quế không những có tình mà còn rất có lý: Chó và hạc đều là vật. Cả hai không biết nói, không biết chữ nên hạc đeo thẻ đề Thiên Tử Hạc chó cũng không biết. Như vậy, chó cắn chết hạc là do cái thói cắn nhau của hai con vật, nên không thể bắt chủ chó thế mạng. Nếu bản án trên thi hành như kết luận của Bộ Hình thì sau này thành án lệ. Chẳng hạn, lỡ có ngày chó hoàng cung cắn chết cầm thú nhà dân hay cắn chết người ta, không biết sẽ nghị án ra sao. Không lẽ phải bắt chủ nhân của nó là vua trị tội?

Vụ án “chó cắn hạc vua” đã để lại một điển tích hay về việc xử án ngày xưa của cha ông mà ngày nay chúng ta vẫn cần phải học tập. Đó là không phân biệt hay thiên vị một ai trong việc phân xử, chỉ có lẽ phải là luôn phải được tôn trọng triệt để.

Huế, ngày 8.12.2017

N.V.T