Văn kiện Đại hội Đảng XIII phải mang khát vọng về một Việt Nam cường thịnh
Tin tức - Ngày đăng : 08:01, 10/03/2020
GS, TS Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương
Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, là dịp thu nhận nhiều ý kiến đóng góp tâm huyết, trách nhiệm, xây dựng và trí tuệ vào các văn kiện của Đại hội Đảng - quyết định đến sự phát triển của đất nước trong giai đoạn tới.
Điều đó cũng đòi hỏi các văn kiện phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực tế để xác định những định hướng, biện pháp mang tính đột phá. Phóng viên đã phỏng vấn GS, TS Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, Tổ phó Thường trực Tổ biên tập Văn kiện Đại hội XIII.
- Nhìn lại 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII cũng như 10 năm thực hiện Cương lĩnh (sửa đổi) cho thấy đất nước ta bên cạnh những khó khăn, thách thức cũng có nhiều cơ hội mới đan xen. Xin ông cho biết những điểm nhấn nổi bật trong bức tranh toàn cảnh của đất nước trong nhiệm kỳ qua?
- GS.TS Phùng Hữu Phú: Trong 5 năm nhiệm kỳ Đại hội XII, đất nước ta phát triển trong bối cảnh rất phức tạp, có nhiều khó khăn như chiến tranh thương mại, quan hệ quốc tế phức tạp, biến đổi khí hậu, dịch bệnh... Nhưng cũng trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết và thống nhất rất cao, đất nước đạt được những kết quả rất quan trọng và có nhiều dấu ấn nổi bật, khá toàn diện từ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh.
Năm 2019, nước ta đạt mức tăng trưởng GDP cao hơn 7%, mức cao nhất trong một thập kỷ qua, ngoài ra nhiều kỷ lục khác cũng được xác lập.
Về kinh tế, chúng ta giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, được đánh giá là một trong những nước có tốc độ kinh tế vào loại cao nhất khu vực và thế giới. Do đó, quy mô, tiềm năng của nền kinh tế được nâng lên. Về chính trị, chúng ta làm được nhiều việc, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng làm quyết liệt nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền; rà soát, sắp xếp, thu gọn đầu mối theo hướng hiệu lực, hiệu quả được triển khai khá mạnh mẽ, tạo chuyển biến rất tích cực. Cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí được triển khai quyết liệt và thu được kết quả bước đầu rất quan trọng, củng cố và tạo ra niềm tin cho nhân dân, đồng thời tạo ra động lực mới cho quá trình xây dựng, bảo vệ đất nước.
Ấn tượng không thể không nhắc đến đó là chúng ta giữ vững được ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nhiều nơi mất ổn định, chiến tranh. Dấu ấn sâu đậm nữa là chưa bao giờ hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng như thế. Nếu xét quá trình thực hiện Cương lĩnh 1991 đến nay, đặc biệt trong 5 năm gần đây, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã nói: Chưa bao giờ đất nước ta có một cơ đồ như ngày nay.
- Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm. Với cách nhìn khách quan, các văn kiện Đại hội XIII chắc hẳn cũng làm rõ nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, thưa ông?
- GS.TS Phùng Hữu Phú: Dự thảo Báo cáo nhấn mạnh: Đồng thời với những thành tựu rất quan trọng, chúng ta còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm cần phải kiên quyết khắc phục để đất nước phát triển nhanh, bền vững hơn. Báo cáo cũng thẳng thắn chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến những yếu kém, khuyết điểm đó. Bên cạnh nguyên nhân khách quan của sự biến động kinh tế thế giới, tác động của mối quan hệ quốc tế đến đất nước ta thì còn có các nguyên nhân chủ quan từ nội tại.
Đầu tiên là nhận thức vẫn còn một số vấn đề khi thực tiễn quá phong phú, mặt lý luận cũng chưa đủ sáng rõ, do đó còn thiếu sự thống nhất và dẫn đến việc triển khai trong thực tiễn thiếu kiên quyết, lúng túng, chần chừ.
Trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện đường lối còn nhiều hạn chế, yếu kém. Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng thành pháp luật, chính sách, cơ chế chưa thật đồng bộ, chưa tạo nên hành lang pháp lý thật thông suốt, thuận lợi để triển khai. Trong tổ chức thực hiện thì một bộ phận cán bộ, đảng viên còn ỉ lại, trông chờ vào cấp trên, vẫn còn không ít hiện tượng “nói nhiều, làm ít”, nói không đi đôi với làm, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu trong thực hiện.
Việc rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy triển khai chưa đều, chưa đồng bộ. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí tuy thực hiện quyết liệt nhưng chưa đều, có những nơi chưa được quan tâm đúng mức. Cho nên tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên tuy có chuyển biến mạnh nhưng vẫn chưa được đẩy lùi. Điều đó tác động đến đời sống xã hội, làm chậm quá trình củng cố niềm tin của nhân dân.
Từ thực tiễn 5 năm qua, đồng thời với việc phân tích các nguyên nhân dẫn đến yếu kém, Dự thảo Báo cáo chính trị cũng chỉ ra những kinh nghiệm rất thiết thực. Đầu tiên là phải đặc biệt quan tâm công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đặc biệt là đạo đức và cán bộ; phải tiến hành với cuộc đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng, không có điểm dừng, không có vùng cấm để chống tham nhũng, tiêu cực.
Phải thấm nhuần và thực hiện tốt nguyên lý dân là gốc, dân là chủ. Thực tiễn đã chứng minh, trong những lúc khó khăn, nếu không có sự đồng lòng của dân, không có sự vào cuộc mạnh mẽ của dân thì làm sao chúng ta giành được thắng lợi. Cùng với đó, trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện phải rất quyết liệt, quyết tâm chính trị rất cao. Vừa chỉ đạo triển khai rộng về mọi mặt, nhưng tìm đúng trọng tâm, khâu then chốt để tập trung chỉ đạo giải quyết thực hiện. Một kinh nghiệm không thể không nhắc đến là phải chú trọng xây dựng và thể hiện thể chế phát triển đồng bộ. Đặc biệt, chúng ta phải chủ động, dự báo đúng, trúng các xu hướng vận động, các tình huống sẽ diễn ra để không bị động bất ngờ.
- Có ý kiến cho rằng những nguy cơ được chỉ ra tại nhiều kỳ Đại hội như: tụt hậu về kinh tế; chệch hướng XHCN; tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch vẫn còn hiện hữu. Theo ông, vấn đề này cần được đánh giá, nhìn nhận như thế nào?
- GS.TS Phùng Hữu Phú: Trong quá trình thảo luận, cũng có ý kiến đưa ra là bỏ các nguy cơ đã nói từ Đại hội VII, rằng qua mấy Đại hội thì đến nay chắc là không còn nữa. Tuy nhiên, khi trao đi đổi lại, tổ biên tập, Tiểu ban Văn kiện vẫn thấy cần phải giữ lại. Vì trên nhiều mặt, trong các nguy cơ đó, có cái bị đẩy lùi, có mặt đã được khắc phục nhưng nó lại xuất hiện yếu tố mới.
Ví dụ về nguy cơ tụt hậu, mặc dù nước ta đã đạt được nhiều kết quả đáng trân trọng, nhưng nhìn tổng thể vẫn là nền kinh tế chất lượng thấp, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp. Về lượng có tăng lên, nhưng về chất thì chưa có chuyển biến căn bản. Trong bối cảnh mới, nhất là bối cảnh nền công nghiệp 4.0 tác động, nếu ta biết chớp lấy, vượt lên thì sẽ giải quyết được, còn nếu không thì nguy cơ tụt hậu càng nặng hơn. Nguy cơ này vẫn hiện hữu nên không thể bỏ được.
Còn về nguy cơ chệch hướng, chúng ta vẫn kiên định con đường đi lên CNXH nhưng ở lĩnh vực này, lĩnh vực khác, ở bộ phận này, bộ phận khác vẫn còn những biểu hiện lệch lạc, chưa quan tâm đúng mức, chưa nhận thức đầy đủ. Hay giữa kinh tế, văn hóa xã hội, có nơi, có lúc chạy theo kinh tế đơn thuần, vấn đề xã hội vẫn được quan tâm nhưng văn hóa lại chưa được quan tâm đúng mức, cho nên so với kinh tế, văn hóa-xã hội có phần lép vế hơn nên nhiều vấn đề văn hóa, xã hội bức xúc, kéo dài, chậm được khắc phục...
Tất cả những biểu hiện đó đều cho thấy nhận thức chưa chuẩn xác, chưa đầy đủ, cho nên nguy cơ chệch hướng vẫn còn và nếu không nhận thức đúng, không kiên quyết khắc phục thì nguy cơ từ bộ phận sẽ thành toàn cục, từ lĩnh vực này sẽ sang lĩnh vực kia… Do đó, các nguy cơ vẫn còn tồn tại, không thể xem thường và phải kiên quyết khắc phục.
- Việc lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo văn kiện Đại hội tại Đại hội Đảng các cấp là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, tập hợp trí tuệ, trách nhiệm của các tầng lớp nhằm nâng cao chất lượng Văn kiện Đại hội. Trong tình hình hiện nay, theo ông, đâu là những điểm cần lưu ý để có được ý kiến thật sự tâm huyết, trách nhiệm, xây dựng và trí tuệ?
- GS.TS Phùng Hữu Phú: Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII lần này có nhiều điểm mới. Đây cũng là điều tất yếu, bởi vì trải qua gần 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh, chúng ta ngày càng tích lũy tri thức lý luận phong phú hơn. Trong quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, chúng ta cởi mở, quan sát, tiếp thu, lắng nghe kinh nghiệm thành công của các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, trong bối cảnh quốc tế, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tạo ra những đột phá, những đảo lộn về mặt tư duy, sản xuất kinh doanh, về đời sống. Thời cuộc thay đổi mà vẫn tư duy, vẫn làm theo cách cũ thì sẽ thất bại. Thời cuộc bắt ta phải đổi mới và thực tiễn có điều kiện cho chúng ta đổi mới, cho nên Văn kiện lần này có nhiều điểm mới.
Cái mới thể hiện ngay trong chủ đề, mục tiêu tổng quát, mục tiêu phát triển từ nay đến năm 2025, đến năm 2030, 2045. Và 12 định hướng là linh hồn của chiến lược 10 năm, trong từng lĩnh vực như kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại cũng đều có cái mới. Ví dụ về văn hóa xã hội con người, lần này nhấn mạnh đến đổi mới sáng tạo, đặc biệt chú trọng chuyển giao, ứng dụng phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo. Trong đó nhấn mạnh phải tập trung phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, phải thổi bùng lên tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển.
Cùng với đó có điểm mới trong việc xác định các nhiệm vụ trọng tâm 5 năm tới, nhất là xác định những khâu đột phá. Đại hội XI đưa ra 3 đột phá về thể chế, nguồn nhân lực, hệ thống kết cấu hạ tầng; Đại hội XII tiếp tục khẳng định mục tiêu từ Đại hội XI, nhưng Đại hội lần này vẫn xác định 3 đột phá trên có tầm lâu dài, quan trọng trong từng giai đoạn 5 năm, xuất phát từ điều kiện, yêu cầu thực tế để xác định nội hàm của từng khâu. 5 năm tới, tiếp tục thể chế hướng vào cải thiện môi trường đầu tư sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên có điều rất mới là thể chế để làm sao có thể khai thác, phát huy, sử dụng tốt nhất các nguồn lực. Hay thể chế sắp tới tập trung vào việc thực hiện phân cấp, phân quyền hợp lý, đồng thời với trách nhiệm giải trình và kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
Trước đây nguồn nhân lực nói chung là chất lượng cao, phát triển giáo dục đào tạo, phát triển ứng dụng khoa học công nghệ... Nhưng lần này cụ thể nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng ưu tiên các lĩnh vực trọng yếu, nguồn nhân lực gắn với đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng, phát triển KHCN. Đây là một đổi mới rất quan trọng về tư duy KHCN.
Làm sao trong quá trình nghiên cứu, góp ý vào Văn kiện Đại hội cần tập trung vào việc tìm ra cái mới, góp ý vào cái mới xem đã đúng chưa, phù hợp với chúng ta chưa, nên làm thế nào cho tốt nhất. Như trong phần cuối dự thảo văn kiện có toát lên ý phải mang khát vọng về một Việt Nam cường thịnh. Người Việt Nam có khát vọng mãnh liệt, có quyết tâm chính trị cao và đi thẳng vào đổi mới sáng tạo thì không có lý gì mà Việt Nam không cất cánh.
- Xin cảm ơn ông.
Theo VOV