Những vấn đề đặt ra đối với Quốc hội trong giám sát văn bản quy phạm pháp luật
Tin tức - Ngày đăng : 06:33, 28/07/2021
Đoàn đại biểu Hải Dương tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV
Ngày 20.7.2021, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XV đã khai mạc trọng thể, đánh dấu sự khởi đầu của một nhiệm kỳ 5 năm với nhiều cơ hội cũng như thách thức. Ngay trước khi khai mạc kỳ họp đầu tiên, đồng chí Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội đã có bài viết quan trọng: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động lập pháp” với 6 yêu cầu và 8 lĩnh vực cần tập trung. Trong đó, vấn đề giám sát luôn chiếm một vị trí quan trọng với tính chất là 1 trong 3 chức năng của Quốc hội. Trên tinh thần đó, bài viết này tiếp tục đi sâu hơn vào một trong những khía cạnh giám sát của Quốc hội, trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để đẩy mạnh hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của công tác này, góp phần cho thành công chung của Quốc hội nhiệm kỳ tới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật
Là người tiên phong, khai sinh ra nước Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động giám sát gắn rất chặt với mục tiêu xây dựng và củng cố nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của người dân bởi đây là điều mà nhân dân Việt Nam đã phải đấu tranh qua bao thế hệ mới đạt được. Tuy không trực tiếp lãnh đạo và điều hành Quốc hội, nhưng với tư duy và tầm nhìn tổng quát, Người đã chỉ ra được ý nghĩa và mục đích của hoạt động giám sát. Người viết: “Chính phủ ta là Chính phủ của Nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của Nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đày tớ trung thành tận tụy của Nhân dân”.
Về giám sát của Quốc hội, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến hai vấn đề chất vấn và bỏ phiếu tín nhiệm nội các. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thành viên Chính phủ phải sẵn sàng trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời giản dị nhưng cũng thật khúc chiết, chặt chẽ và thành tâm nhận lỗi trước các đại biểu Quốc hội về những sai lầm, khuyết điểm của các thành viên Chính phủ. Còn đối với giám sát văn bản quy phạm pháp luật, Người cũng khẳng định: “Muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát”. Bên cạnh đó, việc giám sát cũng phải đi sâu vào thực chất, nắm rõ thực tiễn, cơ sở. Theo Người, việc giám sát “không nên chỉ bằng cứ vào các tờ báo cáo, mà phải đi đến tận nơi”. Vậy nên khi đánh giá phải có nhiều phương thức và phối hợp hiệu quả giữa các phương thức này để công tác giám sát được sát với thực tế hơn. Đó là những tư tưởng rất quan trọng, là cơ sở cho việc nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện lý luận và cơ chế giám sát của Quốc hội. Vì vậy, trong bài viết của mình, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã nhấn mạnh yêu cầu: “Thường xuyên tiến hành giám sát, đánh giá, tổng kết thi hành pháp luật, rà soát, hệ thống hóa văn bản pháp luật, kịp thời phát hiện và khắc phục những điểm bất cập, thiếu sót, mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật”. Đó chính là cơ sở để Quốc hội khóa XV đẩy mạnh hơn nữa việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật, tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
Những vấn đề đặt ra đối với công tác giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội
Quốc hội khóa XIV đã phát hiện nhiều khoảng trống pháp lý chủ yếu liên quan đến việc quy định chi tiết nội dung được giao trong luật, trong đó có 15% nội dung chưa ban hành văn bản quy định chi tiết, 38% nội dung quy định chi tiết được ban hành chậm từ 6 tháng đến 1 năm; một số bộ, cơ quan ngang bộ còn nợ nhiều nội dung được giao quy định chi tiết. Một số văn bản có dấu hiệu trái với quy định của luật (8 nghị định), quy định không đúng nội dung luật giao (7 nghị định và 3 thông tư), có văn bản quy định chi tiết đã được ban hành đủ về đầu mục nhưng có nội dung chưa cụ thể, khả thi, gặp khó khăn trong quá trình triển khai…
Bên cạnh đó, công tác giám sát văn bản quy phạm pháp luật cũng gặp những khó khăn như: Số lượng văn bản cần giám sát nhiều trong khi số văn bản gửi tới đôi khi chưa đầy đủ, chưa kịp thời; khó xác định phạm vi trách nhiệm giám sát do chồng lấn hoặc chưa được xác định rõ; nguồn nhân lực phục vụ cho công tác giám sát văn bản còn chưa đầy đủ; một số cơ quan giám sát còn chưa chủ động và bố trí thời gian thường xuyên cho hoạt động này.
Để đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả của công tác giám sát văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian tới trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh với những yêu cầu mà Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đặt ra, chúng ta cần phải thực hiện công tác giám sát văn bản quy phạm pháp luật một cách thường xuyên, liên tục và hệ thống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Muốn kiểm soát có kết quả tốt phải có hai điều: một là việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm”. Vì vậy, cần có quy trình, kế hoạch để triển khai việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật một cách thường xuyên, báo cáo Quốc hội định kỳ hằng năm, với sự vào cuộc đồng bộ của các cơ quan của Quốc hội, trong đó cơ quan phục vụ hoạt động giám sát đóng vai trò đầu mối.
Cần bảo đảm cơ chế giám sát văn bản quy phạm pháp luật hiệu quả và làm rõ trách nhiệm của cơ quan chịu sự giám sát thông qua tăng cường hậu giám sát. Một vấn đề sau khi được phát hiện không thể bỏ ngỏ mà phải được tiếp tục giám sát để chủ thể có trách nhiệm khắc phục; thậm chí nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải “làm cho họ vui lòng sửa đổi, chứ không phải bị cưỡng bức mà sửa đổi”.
Cần mở rộng và gắn chặt giám sát văn bản quy phạm pháp luật với giám sát thực hiện chính sách, qua đó thể hiện cao hơn nữa trách nhiệm của Quốc hội, bảo đảm pháp luật được ban hành đi vào cuộc sống. Để thấy được tính hợp lý của văn bản quy phạm pháp luật, cần phải xem tới cả công tác thi hành nó.
Cần phối hợp nhiều phương thức giám sát để có thể đạt được hiệu lực, hiệu quả cao hơn và thực chất hơn, gắn liền với kết quả thực thi văn bản pháp luật trên thực tế. Cần đi sâu vào thực tiễn bằng cách phối hợp với các biện pháp giám sát khác như chất vấn, giải trình, lập đoàn giám sát, xem xét báo cáo… Chú trọng, có cơ chế hiệu quả lấy ý kiến phản hồi của đối tượng chịu sự tác động của văn bản, các cơ quan nghiên cứu, để kịp thời sửa đổi, hoàn thiện. Chỉ có như vậy mới có đủ luận cứ, thông tin để đánh giá một cách toàn diện về văn bản quy phạm pháp luật cần đánh giá...
TS. NGUYỄN NGỌC SƠN
Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương