Cùng với việc Việt Nam liên tục thăng hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) trong những năm gần đây, ĐMST về giáo dục xếp hạng cũng rất cao trong báo cáo Chỉ số ĐMST toàn cầu năm 2018.
Đổi mới sáng tạo về giáo dục Việt Nam xếp hạng rất cao trong báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2018
Giáo dục đóng góp lớn vào tiến bộ ĐMST của Việt Nam
Chỉ số ĐMST của Việt Nam trên bảng xếp hạng toàn cầu (Global Innovation Index 2018) theo báo cáo của WIPO (Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới) liên tục thăng hạng trong những năm gần đây. Cụ thể Việt Nam xếp thứ 71 năm 2014; 59 năm 2016; 47 năm 2017 và 45 năm 2018.
Với 37,94/100 điểm, Việt Nam đứng thứ 45/126 Quốc gia về chỉ số ĐMST, tỷ lệ ĐMST hiệu quả đạt 0,8 (xếp hạng 16). Đây là thứ hạng cao nhất mà Việt Nam đạt được từ trước tới nay và có thể nói là cột mốc đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc về các hoạt động ĐMST quốc gia.
Đặc biệt Việt Nam xếp thứ 2 trong nhóm 30 quốc gia có thu nhập trung bình thấp được đánh giá. Báo cáo Global Innovation Index 2018 cũng cho thấy Việt Nam nằm trong top 5 của nhóm thu nhập trung bình thấp trong tất cả các chỉ số chính về đổi mới sáng tạo (trên Moldova, Ấn Độ và Mông Cổ).
Ông Edward Harris, Bộ phận Tin tức và Truyền thông, WIPO nhận xét: “Trong số các nền kinh tế thu nhập trung bình thấp, 4 quốc gia gồm: Ukraina, Cộng hòa Moldova và Việt Nam thể hiện xuất sắc hơn so với dự kiến khi xem xét dựa trên các chỉ số đầu vào. Chẳng hạn Việt Nam nổi bật trong tăng trưởng năng suất lao động, và là quốc gia dẫn đầu trong nhóm về xuất khẩu công nghệ cao”.
Đầu tư đúng hướng giúp Việt Nam xếp thứ 18/126 quốc gia về giáo dục
Báo cáo GII 2018 chỉ ra một yếu tố quan trọng khiến Việt Nam đạt được thứ hạng cao là sự đầu tư cho giáo dục trong những năm gần đây. Theo đó, Việt Nam đã đứng đầu 2 năm liền (2017 và 2018) về chi tiêu cho giáo dục trong số các quốc gia ASEAN. Đây rõ ràng là đóng góp lớn của ngành giáo dục đối với tăng trưởng về đổi mới sáng tạo quốc gia khi Việt Nam xếp thứ 18/126 quốc gia về giáo dục. Đáng chú ý, thành tích này có được khi chi tiêu cho giáo dục tính theo GDP là 5,7% - xếp thứ 29/126 thể hiện sự đầu tư đúng hướng.
Ngay từ 2016, chủ trương này được Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm chỉ đạo triển khai ở tất cả các trường đại học, nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục đại học của Nghị quyết 29-NQ/TW.
Sau hơn 4 năm thực hiện yêu cầu “nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục” của Nghị quyết 29, số lượng và chất lượng các nhà khoa học đều tăng. Điều này thể hiện qua số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ và thạc sĩ tăng dần qua các năm. Cụ thể, từ 2012 tới 2017, số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 14,4% lên 21,8%, giảng viên có trình độ thạc sĩ tăng từ 47% lên 59,4% qua các năm. Đồng thời giảng viên có trình độ khác giảm dần cả về con số tuyệt đối lẫn tỉ lệ % (giảm từ 38,6% xuống còn 18,6%).
Ngành giáo dục đang sở hữu một lực lượng dồi dào các nhà khoa học trình độ cao hơn hẳn so với các ngành khác trong cả nước (chiếm hơn 50%) với nguồn nhân lực chất lượng cao (PGS, GS, TS). Đặc biệt, hơn hẳn nguồn nhân lực chất lượng cao tại các viện nghiên cứu và các tổ chức nghiên cứu khoa học.
Các nhà khoa học trong ngành giáo dục đã có nhiều đóng góp cho phát triển giáo dục, kinh tế - xã hội, đạt được nhiều giải thưởng cao quý quốc tế và quốc gia như: TSKH. Trần Đình Phong (Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội); PGS.TS. Phạm Văn Hùng (Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh); TS. Đỗ Quốc Tuấn, (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) giải thưởng Tạ Quang Bửu. GS Phan Thanh Sơn (Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) và PGS Nguyễn Sum (Đại học Quy Nhơn) có tên trong danh sách 100 nhà khoa học châu Á năm 2018. TS Nguyễn Thị Hiệp (giảng viên Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) đã xuất sắc giành Giải Nhất cuộc thi Giải thưởng Khoa học ASEAN - Hoa Kỳ…
Tỷ lệ nhân lực nghiên cứu khoa học trong các trường đại học/học viện của ngành giáo dục so với các khu vực hoạt động khác trong cả nước năm 2016. Nguồn: Báo cáo Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2016
Một trong số các mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng là hoạt động nghiên cứu khoa học. Hoạt động nghiên cứu khoa học được thể hiện thông qua: số lượng nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục đại học, qua các thông bố quốc tế và khả năng ứng dụng thực tiễn.Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innnovation Index, hay còn gọi là GII) được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO) phối hợp xây dựng cùng Trường Kinh doanh INSEAD, Pháp – một trong số các trường kinh doanh tốt nhất thế giới và Đại học Cornell , Hoa Kỳ - top 20 đại học tốt nhất thế giới theo xếp hạng QS và Times Higher Education (THE). Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu – GII được đánh giá là toàn diện và chính xác hơn các thước đo truyền thống (trước đây đo bằng các chỉ số: chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển, số lượng các bài báo và nghiên cứu được công bố hay số bằng sáng chế được đăng ký). |
L.SƠN (Báo Tin tức)