Trước hết nói về nhan đề khá độc đáo của bài thơ. Đây cũng là tứ thơ mà tác giả Nguyễn Hữu Quý đã xác định từ đầu, khơi gợi ở người đọc cảm giác vừa lạ xa vừa gần gũi.
Làng đảo Trập trùng sóng, trập trùng mây Giữa bao la biển, ô hay, làng mình Cũng vàng hoa mướp rung rinh Cũng tươi hoa muống trắng tinh cạnh nhà Mồng tơi ra với Trường Sa Lá xanh quấn quýt như là đợi em... Muốn xem ra đó mà xem Rau sam trên đá, rau dền trong khay Đất quê đóng gói về đây Lính gieo hạt xuống thành cây, thành làng Đảo xanh, biển bớt mênh mang Đá san hô thấm mấy tầng mồ hôi! Làng tươi roi rói nụ cười Câu chèo ai hát í ơi cầu vồng Vui gì bằng đón văn công Da đen là lính, má hồng là em Lính kề vai lính ngồi xem Mấy bông muống trắng hái đem tặng người Ở nơi cuối đất cùng trời Chiếc hôn cũng mặn gió khơi, ngập ngừng Chúng mình ngồi với rưng rưng Hát trăng, hát gió, hát cùng Trường Sa Hát cùng em, hát cùng ta Đảo chìm, đảo nổi đồng ca với mình Thương ai, mắt cứ lặng thinh Một ngày bằng mấy nghĩa tình trăm năm Mai xa vương vấn hôm rằm Tròn trăng em hát giữa làng Trường Sa... NGUYỄN HỮU QUÝ |
Trước hết nói về nhan đề khá độc đáo của bài thơ. Đây cũng là tứ thơ mà tác giả Nguyễn Hữu Quý đã xác định từ đầu, khơi gợi ở người đọc cảm giác vừa lạ xa vừa gần gũi. Cái tên "Làng đảo" nhờ thế đã gây ấn tượng và mang lại nhiều cảm xúc thật đặc biệt. Có lẽ cảm hứng của bài thơ là viết về vẻ đẹp của những hòn đảo tiền tiêu xa khơi của đất nước, gắn bó máu thịt với dải đất hình chữ S thân yêu. Nếu đọc kỹ nội dung bài thơ, người đọc dễ nhận ra dụng ý của tác giả khi triển khai tứ thơ ở bài này: đảo cũng là làng xóm yêu thương của mỗi con người, cũng có hoa mướp vàng, "rau sam trên đá, rau dền trong khay"; đặc biệt vẻ đẹp của "làng đảo" chính là tinh thần văn hóa thấm đẫm vào từng câu chèo, điệu hát gắn bó, thiết tha.
Để triển khai tứ thơ độc đáo này, ngay ở khổ thơ thứ nhất, tác giả liền giới thiệu vẻ đẹp thiên nhiên của "làng đảo". Thú vị là khi tác giả dùng chữ "ô hay" nhằm biểu đạt sắc thái ngỡ ngàng khi dựng lên một "làng đảo" được bao vây giữa "trập trùng sóng, trập trùng mây". Nguyễn Hữu Quý đã đưa độc giả tìm được ngay cái cảm giác thanh bình khi bước chân đến "làng đảo" - một "ngôi làng" thật đặc biệt toàn những người lính trẻ hiên ngang nơi đầu sóng ngọn gió.
Cái thú vị ở đoạn thơ đầu là tác giả đã sử dụng rất nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau đan xen, vừa dựng lên một "làng đảo" rất gian khổ nhưng cũng đầy vẻ đẹp nên thơ. Điển hình và giàu sức gợi, Nguyễn Hữu Quý phác họa cái nét "làng" trên hòn đảo tiền tiêu thật sinh động: “Cũng vàng hoa mướp rung rinh/ Cũng tươi hoa muống trắng tinh cạnh nhà/ Mồng tơi ra với Trường Sa/ Lá xanh quấn quýt như là đợi em...”.
Bao nhiêu là loài hoa dân dã, thuần khiết ở khắp mọi làng quê trên đất nước ta dường như cũng đang tụ về đây khoe sắc, tỏa hương. Có được màu xanh trên đảo không phải là chuyện giản đơn mà phải được chắt chiu dành dụm từ biết bao nhọc nhằn của người lính đảo.
Đến đoạn thơ thứ hai của bài thơ "Làng đảo", Nguyễn Hữu Quý đã rất tài hoa khi khắc họa cội nguồn văn hóa thông qua đêm văn nghệ biểu diễn của đoàn văn công trên đảo: “Làng tươi roi rói nụ cười/ Câu chèo ai hát í ơi cầu vồng/ Vui gì bằng đón văn công/ Da đen là lính, má hồng là em”.
Nguyễn Hữu Quý chia sẻ "đảo dù ở xa nhưng cảnh vật từ sắc thái đến âm thanh đều mang đậm văn hóa làng Việt trên đất liền. Đảo nổi, đảo chìm ở Trường Sa cũng là làng Việt cả thôi. Gần gũi và thiêng liêng quá đỗi". Câu thơ "da đen là lính, má hồng là em" thật hay, thật gợi, cứ nghe như hồn lục bát của Nguyễn Du, Nguyễn Bính... cũng chấp chới vọng về trên đảo xa.
Người lính ngồi xem đoàn văn công hát, quà tặng cho những người con gái xinh đẹp từ đất liền ra thật đơn sơ nhưng lại rất cảm động. Mấy bông hoa muống biển - thứ quà sẵn có đã khiến lòng ai chẳng thấy bâng khuâng.
Chính khoảnh khắc nghĩa tình tha thiết ấy giữa người lính tiền tiêu và cô gái văn công nơi xa cách đất liền, Nguyễn Hữu Quý đã cảm nhận bằng chính sự "rưng rưng" của lòng mình để rồi thảng thốt bật lên một tiếng thơ đầy ắp yêu thương: “Chúng mình ngồi với rưng rưng/ Hát trăng, hát gió, hát cùng Trường Sa”.
Hai câu thơ kết bài thể hiện tình cảm luyến lưu của nhân vật trữ tình thương nhớ về hình ảnh người con gái đã một lần đến "làng đảo" để rồi những câu ca cứ neo lại không về, kết thành muối mặn gừng cay trong trái tim người lính nơi trùng dương sóng vỗ: “Mai xa vương vấn hôm rằm/ Tròn trăng em hát giữa làng Trường Sa...”
"Làng đảo" là bài thơ hay nhờ ở khả năng lập tứ và tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh để diễn tả vẻ đẹp "làng" nơi hải đảo xa xôi. Thi phẩm khắc chạm vào tâm trí người dân nước Việt về sức mạnh của văn hóa làng, chính điều đó đã hun đúc nên tình cảm yêu nước, tình quân dân đẹp đẽ, thắm thiết. Có thể xem "Làng đảo" là hình mẫu cho những bài thơ hay viết về biển đảo đất nước, vừa đậm đà tính dân tộc, vừa hiện đại nhờ vào cảm xúc chân thành, tình yêu mến thiết tha với những người lính trẻ nơi tiền tiêu của Tổ quốc.
LÊ THÀNH VĂN