Nhà dạy học cũ của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi ở làng Linh Khê, xã Thanh Quang (Nam Sách) có thể xem là biểu tượng linh thiêng của sự khuyến học.
Nếu tỉnh Hải Dương cần có một địa chỉ khuyến học, tôi nghĩ: không có nơi nào phù hợp, đủ độ tin cậy và xứng đáng như địa chỉ này. Đây là Trạng nguyên cổ trạch (nhà cũ Trạng nguyên) một trong Chí Linh bát cổ (tám danh thắng cũ của huyện Chí Linh) trong văn hóa nổi tiếng của xứ Đông xưa.
Mạc Đĩnh Chi (1280 - 1346), người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, nay là làng Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách (Hải Dương), tên chữ là Tiết Phu, đỗ Trạng nguyên năm 1304, làm quan đến chức Tả bộc xạ, dưới triều vua Trần Anh Tông. Ông đã hai lần đi sứ Bắc, làm vẻ vang cho quốc gia Đại Việt, được vua nhà Nguyên rất khâm phục, phong ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên (tức là Trạng nguyên của cả nước Trung Hoa). Khi nghỉ hưu, ông về mở trường dạy học tư tại làng Tông Xá, gần làng ông, cạnh đường cái quan của bản huyện, chính là di tích này.
Nhà dạy học cũ của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cần được sửa sang nâng cấp vì đó là biểu tượng linh thiêng của sự khuyến học.
Trong cuộc đời của Mạc Đĩnh Chi, nổi tiếng nhất vẫn là chuyện ông đối đáp trong một (hoặc cả hai) lần đi sứ Bắc, cực kỳ tài giỏi thông minh, đầy khí phách, được coi là biểu tượng kỳ tài của trí tuệ Việt. Ông cũng là vị quan nổi tiếng thanh liêm, hết lòng vì dân, vì nước, vì sự trong sạch của triều đình. Tất cả những điều đó, cùng với hành trang của ông, đều được ghi đầy đủ trong các truyện kể, các giai thoại văn học, in đi in lại nhiều lần, dường như không người Việt Nam nào không biết. Nhưng rất ít người biết, tất cả những chi tiết đó, đều xuất phát từ một văn bản gốc, đó là truyện Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi của Trần Tiến, một nhà sử học và một nhà văn rất nổi tiếng ở thời Lê.
Trần Tiến (1709 - 1770), tên hiệu là Cát Xuyên, tên tự Khiêm Đường, đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1748) làm quan Phó đô Ngự sử, tước Sách Huân bá, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, truy thăng Lễ bộ thượng thư, tác giả các bộ sách: Đăng khoa lục sưu giảng (sử); Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Cát Xuyên tiệp bút, Niên phả lục (ký); Cát Xuyên thi tập (thơ)... Sách giáo khoa phổ thông Ngữ văn lớp 10 nâng cao, vinh danh ông là một trong 5 nhà viết ký xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam: Vũ Phương Đề, Trần Tiến, Lê Hữu Trác, Phạm Đình Hổ, Lý Văn Phức. Ông được coi là người khai sinh ra thể ký tự thuật trong văn xuôi Việt Nam, từ năm 1764 - 1765, với tập ký sự tự thuật đầu tiên Trần Khiêm Đường niên phả lục.
Về tác phẩm Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) viết: “về Mạc Đĩnh Chi, đã có Cát Xuyên tiệp bút của Thượng thư họ Trần, người Điền Trì, Chí Linh, nay không nói thêm nữa” (dẫn theo GS. Trần Văn Giáp). Do đó có thể nói, đương thời tác phẩm này của Trần Tiến rất nổi tiếng và thông dụng. Nhiều chục năm nay, Cát Xuyên tiệp bút đã thất lạc, phần còn lại về Mạc Đĩnh Chi in lẫn trong Tục Công dư tiệp ký của Trần Trợ (Trần Quí, hoặc Trần Quí Nha), là con của ông. PGS.TS. Nguyễn Đăng Na, căn cứ vào ý kiến của Phạm Đình Hổ, bóc tách ra thành một phần riêng, in ở phần Bổ di, cuối tác phẩm Tục Công dư tiệp ký và ghi rõ là tác phẩm của Trần Tiến (NXB Văn học, 2008). Trong lời mở đầu, Nguyễn Đăng Na viết: “Theo gia phả, thời kỳ Trần Tiến ở nhà cư tang thân phụ, thân mẫu, năm 1758 - 1760, ông đã tới thăm và làm lại nhà từ đường Mạc Đĩnh Chi, đồng thời sưu tầm thơ văn, sự tích về Mạc Đĩnh Chi. Điều này cũng đã được Phạm Đình Hổ ghi nhận trong Quần thư khảo biên. Hơn nữa, sách Thần quái hiển linh lục hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, về thiên truyện Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, soạn giả ghi rõ: “Chí Linh, Điền Trì, Trần Tiến tự”, nghĩa là Trần Tiến, người Điền Trì, Chí Linh, kể”. Sau này, tất cả những bài viết về Mạc Đĩnh Chi từ tiểu sử đến truyện ký danh nhân… các tác giả đều dựa vào thiên truyện của Trần Tiến mà thêm thắt. Ta cần ghi công lao này là của Trần Tiến” (sách đã dẫn, trang 127).
Phần thiên truyện về Mạc Đĩnh Chi in trong Bổ di, Nguyễn Đăng Na cũng dịch thẳng từ Thần quái hiển linh lục, ký hiệu A. 7648 của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, có đối chiếu với Tục Công dư tiệp ký. Nghĩa là xuất phát từ văn bản khoa học đáng tin cậy hiện còn lưu giữ được.
Theo ghi chép từ tháng 8 năm Bính Thân (1796) của Trần Trợ, thì tháng 3 năm Canh Dần (1770), sau khi vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786) cho phép bản huyện thờ ba vị “Thượng đẳng phúc thần” là Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Hưng Nhượng đại vương, anh hùng dân tộc Trần Quốc Tảng và Thái bảo, Tham tụng Lễ bộ thượng thư, nhà nông học đầu tiên của Việt Nam Trần Cảnh, chính Trần Tiến đã “xem khắp địa hình của bản huyện, lập từ chỉ”, ở đây, nơi thờ ba vị phúc thần và các bậc tiên hiền đỗ đạt, “vì chùa Quất Lâm, Tông Xá là giảng đường cũ của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi người Lũng Động” (Niên phả lục, Nguyễn Đăng Na dịch, NXB Văn học, 2003, trang 269 - 270). Từ đó, có thể hiểu: Văn chỉ Linh Khê hiện nay là do Triều liệt đại phu, Phó đô Ngự sử Trần Tiến lập năm 1770, trên nền cũ của ngôi nhà mà Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi từng dạy học, bên cạnh chùa Quất Lâm. Trước đó, sau năm 1748, chưa rõ vào năm nào, ông đã bỏ tiền lương của mình, sửa sang lại di tích này.
Những năm 1952 - 1953, tôi đã tản cư ở đây và thường có mặt trong khu di chỉ này, lúc đó còn chưa bị tàn phá. Ba bức tượng đá thờ ba danh nhân còn chưa bị đập ra nung vôi. Bây giờ tôi cũng qua lại thăm nhiều lần. Ba vị thượng đẳng phúc thần đã được tạc tượng lại để thờ, ba bức tượng khá đẹp, tôn kính, nhưng rất tiếc được đặt trong gian nhà quá nhom nhem. Cạnh đó là nhà văn hóa thôn, trưng bày có phần còn lộn xộn. Quý nhất là tấm bia đá Chí Linh bát cổ còn hầu như nguyên vẹn, sau 23 năm nằm sâu dưới đáy ao (1968 - 1991), vì đó là một khối đá lớn, nguyên khối, bốn mặt hình chữ nhật, cao hơn 2 mét, không thể phá được bằng sức người. Bia khắc bài thơ Chí Linh bát cổ của tác giả có tên hiệu là Thanh Hiên (mà có người nêu giả thuyết rằng, có thể là sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du? Tôi không tin Nguyễn Du là tác giả của bài thơ này, dù ông có thời kỳ làm quan ở Hải Dương, có thời gian làm giám khảo trường thi ở Hải Dương, nhưng xin cứ ghi lại để các bậc cao minh xem xét, tra cứu). Bài thơ làm năm 1795 khắc đá năm 1798, dựng bia năm 1800. Tấm bia đã được công nhận là di tích lịch sử và văn hóa cấp tỉnh.
Điều tôi quan tâm hơn cả vẫn là tổng thể của di tích lịch sử hiếm có, mang tầm quốc gia này, là nhà dạy học cũ của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi ở thời Trần. Chúng ta đang xây dựng một xã hội học tập, thì đây là một địa chỉ quý hiếm, có thể nói là linh thiêng, của nền giáo dục xứ Đông xưa, lại đặt ở huyện Nam Sách, một huyện được ghi nhận là có số tiến sĩ Nho học nhiều nhất trong cả nước.
Tôi rất mong lãnh đạo tỉnh Hải Dương và huyện Nam Sách sửa sang nâng cấp di tích này thành biểu tượng của sự khuyến học. Đây sẽ là nơi vinh danh các hiền tài, tập huấn và hội thảo khoa học giáo dục, trao thưởng cho các học sinh giỏi các cấp, nơi phát huy những giá trị về văn hóa và đạo lý, từ ba vị danh nhân: Mạc Đĩnh Chi, Trần Quốc Tảng, Trần Cảnh và truyền thống của quê hương, của huyện, của tỉnh và của cả nước, để xây dựng những cốt cách và tầm vóc mới của con người Việt Nam ngày hôm nay, có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong muốn ngày nào của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Nhà thơ TRẦN NHUẬN MINH