Thầy tôi là một người giản dị vô cùng. Những bộ đồ thầy mặc đến lớp đơn giản với áo sơ mi trắng, quần ka ki màu sẫm. Thầy vẫn giữ hình ảnh ấy cho mãi đến tận sau này.
Tháng mười một ghé sang, những cơn gió đông thốc thổi lạnh đến tê tái, một buổi chiều cuối tuần bao ngổn ngang, lòng xao động, hình ảnh về người thầy năm xưa cứ bám lấy mãi trong tâm trí tôi.
Thầy dáng dong dỏng cao, gầy và có nước da rất trắng, cần mẫn đứng trên bục giảng dạy học suốt những năm tôi học cấp hai. Tôi đã từng là một đứa trẻ nghịch ngợm không thích học chỉ thích chơi, hay gây gổ với bạn bè. Nhưng kể từ khi gặp thầy tôi đã trở thành một con người khác hoàn toàn. Cuộc đời cho tôi được gặp thầy như một định mệnh, tôi sẽ không bao giờ quên. Là một học sinh cá biệt, tôi cứ nghĩ rằng thầy sẽ trút lên tôi những lời mắng mỏ như nhiều thầy cô từng áp dụng. Nhưng không, thầy đối xử với tôi thật nhẹ nhàng giống như bao học sinh khác trong lớp. Thời gian trôi đi, sự bao dung, yêu thương của thầy đã cảm hóa tôi từ một học sinh cá biệt thành một cậu học sinh ngoan ngoãn và bắt đầu biết phấn đấu học tập.
Tôi vẫn nhớ rất rõ những tiết học của thầy. Thầy luôn mang một chiếc thước gỗ rất to để trên bàn giáo viên. Tuyệt nhiên chưa bao giờ cái thước ấy chạm vào người học trò mà chỉ dùng đúng chức năng vốn có là kẻ những hình lên bảng trong giờ toán. Người ta thường nói “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, nhưng với thầy tôi, thương và ghét thầy đều cho ngọt, cho bùi. Trong suốt những năm học thầy, rất hiếm khi tôi thấy một lời mắng mỏ khi học trò của mình mắc lỗi. Khuôn mặt thầy chỉ thoáng qua nét buồn rồi lại từ tốn khuyên bảo học trò, động viên quan tâm.
Chúng tôi, những học sinh nội trú từ vùng xa về trường học tập và ở ký túc xá của trường. Thầy tôi thuê nhà ở cạnh bên. Được ở gần thầy, đám học trò chúng tôi được lợi vô cùng. Thầy không ngại thức tới khuya, mở cửa cho học trò hỏi bài và khuyến khích những học trò chăm chỉ. Ở gần thầy, có những hôm đói quá, chúng tôi liền chạy sang xin thầy một bát cơm, bát mì ăn no căng bụng rồi lại về phòng. Ở gần thầy, thầy chỉ cho cách trồng rau, nuôi gà, áp dụng bài học từ trang sách ra thực tiễn.
Thầy tôi là một người giản dị vô cùng. Những bộ đồ thầy mặc đến lớp đơn giản với áo sơ mi trắng, quần ka ki màu sẫm. Thầy vẫn giữ hình ảnh ấy cho mãi đến tận sau này. Thầy từng nói với chúng tôi rằng bộ quần áo không làm nên giá trị của mỗi con người, hãy ăn mặc sao cho gọn gàng, sạch sẽ, phù hợp với bản thân. Khi trưởng thành ra trường, đi làm kiếm được đồng tiền bằng chính sức lực của mình, dành dụm một ít mua quà cho thầy tôi cũng phải nghĩ tới nghĩ lui mua quà ra sao để thầy vui lòng và không bị “mắng” là tiêu pha không đúng mực.
Thầy tôi mỗi lần đông sang, căn bệnh về phổi lại tái phát. Thầy ho sù sụ, ho dai dẳng và liên hồi. Rất nhiều lần thầy phải ngừng bài giảng ra ngoài hành lang để ho. Đám học trò ngồi trong lớp lòng thắt đi lo lắng. Thương thầy, hồi đó chúng tôi mỗi đứa góp một ít tiền mua một chai dầu gió xanh đến tặng thầy. Lúc nhận chai dầu gió mà thầy cứ mắng mãi vì rằng học sinh phải dành dụm tiền bố mẹ cho để chi tiêu sinh hoạt hằng ngày. Đó cũng là lần hiếm hoi tôi thấy thầy mắng học trò của mình.
Lần cuối cùng tôi về thăm thầy vào một ngày đầu tháng mười một, cơn gió đông thông thốc thổi. Căn bệnh năm xưa cùng tuổi già khiến thầy vốn dĩ gầy gò lại càng ốm yếu hơn. Thầy không thể ngồi dậy, nằm trong lớp chăn dày sụ, nói những lời nặng nhọc. Thầy vẫn nhớ tôi, cậu học trò nghịch ngợm thuở nào, nhìn tôi bằng ánh mắt trìu mến. Tôi nắm lấy bàn tay thầy, tạm biệt thầy mà lòng nặng trĩu...
Giờ đây, lại thêm một mùa đông nữa vừa sang, thầy tôi không còn trên cõi đời này nữa, lòng tôi lại thắt nhớ một bóng hình quen thuộc...
Tản văn của ĐÀO THANH TÙNG