Hơn 100 năm trước, ngày 16.11.1913, Hội Những người bạn cố đô Huế (Association des Amis du Vieux Hué, thường gọi là B.A.V.H.) đã ra mắt, sau đó xuất bản tập san cùng tên.
Nguyên bản tiếng Pháp cuốn Bảo tàng Khải Định do tập san Những người bạn cố đô Huế thực hiện, phát hành năm 1929, chỉ 5 - 6 năm sau khi bảo tàng này được thành lập.
Một trong những sứ mệnh của B.A.V.H. là “Sưu tầm, bảo tồn và truyền đạt những dấu tích xưa về chính trị, tôn giáo, nghệ thuật và văn học châu Âu cũng như bản xứ, liên quan đến Huế và phụ cận”. Với 31 năm tồn tại, B.A.V.H. đã có rất nhiều đóng góp về mặt tư liệu, nghiên cứu, hiện vật, thư viện và bảo tàng cho Huế, cũng như Việt Nam. Do hoạt động sâu sát và có chuyên môn cao nên khi đọc lại Bảo tàng Khải Định, độc giả ngày nay gần như có dịp “uống nước tận nguồn” về ý tưởng, tiêu chí, xây dựng, chính sách, hiện vật… của bảo tàng này.
Hai lý do cụ thể của việc thành lập Bảo tàng Khải Định là “chống lại tình trạng thất thoát của những hiện vật quý hiếm và cũng nhằm giữ lại cho những người thợ tương lai những mẫu vật hoàn hảo nhất của nghệ thuật Trung Hoa - An Nam” - trang 62. Bởi theo thông tin mà B.A.V.H. có được, Pháp thời bấy giờ đã rất sôi động việc mua bán cổ vật và nghệ thuật An Nam, nhiều triển lãm lớn và nhiều phiên đấu xảo quy mô đã diễn ra tại Paris.
Khi đi vào hoạt động, năm thứ nhất, Bảo tàng đã đón 1.300 khách tham qua có ghi danh, năm thứ hai là 3.900 khách, đến năm 1926 là 7.000 khách. Nếu tính luôn khách không ghi danh, con số này nhiều hơn gấp đôi. Năm 1927, Viện Viễn Đông bác cổ (École française d'Extrême-Orient) đặt một phân viện nghiên cứu Chămpa tại Bảo tàng Khải Định, nên về chuyên môn khảo cổ, lưu trữ và nghiên cứu càng thêm phát triển.
Đến tháng 3.1945, hiện vật của Bảo tàng đã lên đến gần 10.000 đơn vị, gồm nhiều vật liệu, từ vàng, bạc, đồng cho đến gốm sứ, pha lê, thủy tinh, gỗ, đá, mây, tre, giấy, da... Nếu không có chỉ dụ sáng suốt của vua Khải Định, truyền thống bảo tàng và nền tảng sưu tập ở Huế cũng như Việt Nam sẽ khuyết một mảng rất lớn.
Những gì còn lại
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn cho biết: “Thời thuộc Pháp chỉ xây dựng được hai viện bảo tàng đúng tiêu chuẩn ở Sài Gòn và Hà Nội. Riêng Huế từ đó đến nay vẫn sử dụng tòa điện Long An để làm bảo tàng, nên rất khó trưng bày và bảo quản cổ vật. Do đó, sau nhiều biến cố và chiến tranh, các cổ vật cất giữ tại đây đã bị hư hỏng, bể nát, mất mát khá nhiều, đặc biệt là vào các năm 1945, 1968, 1975... Rồi các vụ thiên tai, bão lụt lớn cũng làm cho nhà kho bị sụp đổ, hư hại, trộm cắp”.
Ông nói tiếp: “Có điều rất may, hầu hết các bảo vật bằng vàng, ngọc ngà, châu báu... xứng tầm quốc bảo thì đã an trú tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia ở Hà Nội kể từ năm 1947. Cho nên, giá trị nổi bật còn lại của Bảo tàng Khải Định xưa và Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế ngày nay là những cổ vật bằng sành sứ, vải vóc, gỗ đá... Đặc biệt, nơi đây còn lưu giữ một số đồ sứ của Pháp và các nước như Trung Quốc, Nhật Bản... trao tặng qua đường ngoại giao dưới triều Nguyễn, chúng quý vì các bảo tàng khác không có”.
Tính đến nay, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã có 35 bảo vật quốc gia được công nhận, phần lớn trong số này do Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế - Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế quản lý. Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế tức là Bảo tàng Khải Định ngày trước, vị trí tọa lạc vẫn y chỗ cũ. Nhìn vào số bảo vật này để thấy sự đóng góp trực tiếp và gián tiếp của Bảo tàng Khải Định, mà chính yếu nhất, theo giới nghiên cứu, vẫn là việc đặt nền tảng, tạo cảm hứng cho việc thành lập thêm các bảo tàng về sau trên khắp Việt Nam.
Ngay cả như không gian chính của Bảo tàng Khải Định cũng là một trong những di tích thuộc quần thể Di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1993. Chính vì vậy, mà từ lâu rồi, Bảo tàng Khải Định đã là một biểu tượng của văn hóa, văn minh và văn hiến của không riêng gì xứ Huế.
Theo Thể thao & Văn hóa