Trần Cảnh chống tham nhũng

Danh nhân - Ngày đăng : 09:05, 26/06/2011

Trần Cảnh (1684-1758), người làng Điền Trì, xã Hộ Xá, tổng Đột Lĩnh, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, đạo Hải Dương. Ông nổi tiếng là một người thanh liêm chính trực, rất ghét các thói xấu của đám quan lại.


Tham Tụng Trần Cảnh (1684 - 1758)


Theo thư tịch cũ thì Trần Cảnh (1684 - 1758),  người làng Điền Trì, xã Hộ Xá, tổng Đột Lĩnh, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, đạo Hải Dương, nay là thôn Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ tiến sĩ năm 1718, làm quan suốt 40 năm (1718 - 1758). 22 năm đầu (1718 - 1740), chức thấp, làm Tế tửu Quốc tử Giám và Đốc đồng hay Hiệp trấn các xứ. 18 năm sau ( 1740 - 1758) ông mới được tin dùng, lần lượt làm Thượng thư bộ Công, bộ Hình, bộ Binh, bộ Lễ, hai lần làm Tham tụng (tể tướng). Đúng như ghi chép của con ông, Phó đô ngự sở Trấn Tiến: ông bị ruồng bỏ lúc sức còn tráng kiện và được tin dùng lúc già cả ốm đau. Ông là tác giả bộ sách Minh nông chiêm phả (1749) được coi là nhà khoa học nông nghiệp đầu tiên của Việt Nam. Ông nổi tiếng là một người thanh liêm chính trực, rất ghét các thói xấu của đám quan lại. Vì thế quan lại đương thời “nhiều người không ưa, khi hoạn nạn không một ai cứu giúp”.  Nói theo ngôn ngữ bây giờ, ông là người tích cực chống tham nhũng và bản thân ông rất gương mẫu về vấn đề này.

Trước hết là thói tham lam vơ vét tiền của của nhân dân của đám quan lại, ông rất ghét và khinh bỉ. Ông thấy, đám quan của triều đình: “vẫn làm việc xấu xa, vui say tửu sắc”, “nói là đi bảo vệ dân, thực chất là đi cướp của dân. Thảy đều như vậy”. Chúng “vơ vét từ cái chổi cùn rế rách của dân”. Đám quan lại này, khi được nhà vua giao cho quyền quản lý họ, là ông kiên quyết thanh trừng.

Thứ hai là nạn hối lộ rất phổ biến, ở chỗ nào cũng thấy, cấp nào cũng có.  Ngày 18 - 1 năm Tân Dậu (1741), ông nhậm chức Tể tướng (Tham tụng) lần thứ nhất. Tháng 7 năm đó,  có viên quan nội thị tên Nghệ là người nhà của quan Tham tụng trước đây, tham ô khi “xuất nạp đồ chính”, ông kiên quyết phế truất, dù có một viên quan ngang cấp với ông “kiên quyết không đồng ý”. Ở bộ Hộ có 4 viên lại (cán bộ ) nhận hối lộ. Ông cho điều tra và khi chúng nhận tội, ông xử chúng án “tử hình và tịch thu toàn bộ gia sản”. Các quan trong triều nhiều người không ưa, nên khi có điều kiện là đề nghị nhà vua chuyển ông đi làm việc khác.

Thứ ba là nạn thâu gom ruộng đất vào tay các quan. Ông thấy đây là điều bất công lớn nhất trong xã hội. Khi được nhà vua trao cho chức Điền chính sứ quản lý về ruộng đất, ông xem sổ kê khai, thấy các quan có quá nhiều ruộng đất mà các hộ dân thì nhiều người không một tấc cắm dùi. Ông đề nghị nhà vua cho “chia lại ruộng đất một cách chính thức”, vì “sau những cuộc đại loạn, tình hình càng rối ren, không thể truy cứu vào đâu được”. Chủ trương ấy của ông, “các đạo (tỉnh) phần nhiều bỏ bễ, không làm, hoặc làm qua quýt, không chịu tra xét. Riêng ngài thậm ghét tệ nạn đó, nên ra sức thi hành, chủ yếu là giúp đỡ kẻ yếu (để họ có ruộng đất mà làm ăn) ức chế kẻ cường quyền, tước ruộng của kẻ mạnh chia cho người yếu”. Một tư tưởng có thể nói là rất hiếm có ở thời Lê. Tất nhiên, do chạm vào quyền lợi thiết cốt của đám quan lại tham nhũng, nên sau đó,  người khác thay chức ông và việc bị bãi bỏ.

Thứ tư là khi ông đi công cán ở địa phương nào, ông đều lệnh trước cho địa phương đó không được thết đãi bằng cách giết gà, mổ lợn.  Như vậy, ngay giết gà thết ông, ông cũng cấm. Chỉ ăn rau tôm cá như ăn ở nhà mà thôi, vì dân còn đang đói. “Tôm cá  là loài vật nhỏ… còn lợn gà thì không thể được”. Khi ông thết đãi quan từ hàng thượng thư (bộ trưởng) trở lên, “chỉ giết gà, chưa từng mổ lợn”.
Thứ năm, cuối cùng không làm được cho người thì tự làm cho mình, nêu một tấm gương sáng hiếm có ở thời đại ông:

Một, toàn bộ ruộng đất đã mua từ lúc ra làm quan, “đều đem trả lại cho dân, đồng thời không có lấy tiền chuộc” vì ông cho rằng, tiền lương quan mà ông lĩnh hằng năm đã là tiền của dân rồi, dùng tiền đó mà mua ruộng thì đã trả ruộng là xong, sao còn lấy lại tiền đã bỏ ra mua ruộng. Từ năm 1741, tức năm ông nhậm chức Tể tướng, về sau, không mua ruộng  nữa.

Hai, tuyệt đối không biếu xén ai và không nhận hối lộ của bất cứ  ai. Khi ông làm Hiệp trấn xứ Sơn Tây, có người phạm tội bán cả nhà đi nộp cho ông xin được tha, ông kiên quyết từ chối, vẫn xử đúng tội. Có người muốn độc quyền bán muối, được nhà vua đồng ý, lại nộp tiền biếu ông, ông không nhận và không thực hiện, sau đó, ông làm tờ khải dâng vua, thưa rằng, nếu việc đó được làm, e sau này ông ta sẽ tự ý nâng giá để bóp chẹt dân, không ai kiểm soát được. Vua ngơ đi. Có quan ngang cấp với ông đến tận nhà ông xin miễn tội cho người nhà hay người mà ông ta bảo lãnh, ông đều từ chối. Vì thế nhiều quan tức giận, vu cáo ông. Chính do lẽ đó, ông luôn bị giáng cấp, có khi xuống đến 6 bậc, vẫn “tuyệt đối không kêu ca, cũng không nhờ ai xin xỏ cho” như lời nhận xét của vua Lê Hiển Tông khi phục lại chức cho ông.

Ba, làm quan đến chức Tể tướng vẫn rất vui với cảnh nghèo. Khi ông tháp tùng vua đi công cán, vợ con đói đến mức phải đến bộ Lại xin trợ cấp tiền gạo để cứu đói. Khi ông buộc phải nhậm chức Tể tướng lần thứ hai, tháng 5 - 1749, đếm tất cả tiền của trong nhà “chỉ có 30 quan tiền lẻ”. Khi các quan đến nhà ông, “họ mới thấy nhà cửa của ngài, cho rằng phải thay đổi, bậc đại thần, không thể ở tồi tàn như vậy”. Phạm Đình Hổ viết: “làm quan đến bậc khanh tướng mà vẫn ở trong nhà tranh vách đất thì tôi chưa thấy một ai”. Ông thường dặn vợ con: “Nhà mình vốn xuất thân từ  người dân cày, nên ăn mặc phải như những người tá điền, phải tiết kiệm, nấu ăn không được để thừa”.

Trần Cảnh xác định làm quan là vì dân, coi hạnh phúc của người dân là mục đích sống còn của kẻ làm quan, xứng đáng làm gương cho chúng ta ngày nay suy ngẫm. Từ khá lâu, phường Cẩm Thượng (TP Hải Dương) có một phố mang tên ông, chính là cách ghi nhận của thế hệ hôm nay đối với những giá trị mà ông mang lại cho đời sau.

ĐẶNG VĂN NGỮ