Xử lý, giải quyết tố cáo trong Công an nhân dân
Tư vấn - Ngày đăng : 06:32, 22/03/2014
Theo đó, người tố cáo phải viết đơn ghi rõ họ, tên, địa chỉ, ngày, tháng, năm, nội dung tố cáo, ký tên hoặc điểm chỉ trực tiếp. Nếu người tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền để tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo viết đơn hoặc ghi lại nội dung tố cáo thành văn bản để người tố cáo ký hoặc điểm chỉ. Trường hợp tố cáo hành vi tham nhũng qua điện thoại hoặc qua mạng thông tin điện tử thì xử lý theo quy định tại khoản 3, khoản 4, điều 55 Nghị định 59 năm 2013 quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng và quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng.
Người giải quyết tố cáo có trách nhiệm áp dụng kịp thời các biện pháp bảo vệ người tố cáo, ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra và xử lý người vi phạm theo quy định của pháp luật. Cơ quan, đơn vị công an các cấp khi tiếp nhận thông tin tố cáo phải vào sổ hoặc nhập vào hệ thống cơ sở dữ liệu để quản lý, theo dõi. Cán bộ xử lý hoặc người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có trách nhiệm bảo quản, không để hư hỏng, thất lạc, không làm thay đổi hình thức và nội dung đơn tố cáo hoặc văn bản ghi thông tin tố cáo.
Việc xử lý thông tin tố cáo trong hoạt động tố tụng hình sự được quy định: Tố cáo phó thủ trưởng, điều tra viên cơ quan điều tra mà hành vi bị tố cáo không liên quan đến biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam thì chuyển đến Thủ trưởng Cơ quan điều tra cùng cấp của người bị tố cáo. Trường hợp người bị tố cáo là thủ trưởng cơ quan điều tra hoặc tố cáo phó thủ trưởng, Điều tra viên cơ quan điều tra đã được thủ trưởng cơ quan điều tra giải quyết nhưng người tố cáo không đồng ý mà có bằng chứng mới thì chuyển đến thủ trưởng cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết theo quy định.
Tố cáo liên quan đến hành vi bắt, tạm giữ, tạm giam của thủ trưởng, phó thủ trưởng và điều tra viên cơ quan điều tra thì chuyển ngay đến viện kiểm sát cùng cấp xem xét, giải quyết theo quy định.
Tố cáo hành vi tố tụng hình sự của cán bộ, chiến sĩ công an có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra thì chuyển đến viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố đối với người phạm tội mà người bị tố cáo đã tiến hành một số hoạt động điều tra để xem xét, giải quyết theo quy định.
Thông tư có hiệu lực kể từ ngày 20-4-2014.