Và bắt đầu từ tôi: sẻ chia, đồng cảm

Tác giả - Tác phẩm - Ngày đăng : 15:09, 27/11/2014




Thành công ở nhiều thể loại thơ, văn, tiểu luận - phê bình, nhưng người đọc biết Kim Chuông trước hết là nhà thơ, nổi nhất là thơ lục bát vì lục bát Kim Chuông một mình một “chiếu”, không “chung chạ” với ai. Lần này, khi đã “ngoại lục tuần”, đã có 25 tập sách, có 16 tập thơ, Kim Chuông vẫn làm cuộc “tổng duyệt” thơ khi cho ra tập “Và bắt đầu từ tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, quý 3-2014).

Tập thơ có 95 bài, quá nửa là thơ lục bát, cấu trúc làm hai phần. Phần 1 có tiêu đề “Thơ ngày lính trận” với 37 bài thơ tự do, trong số hàng trăm bài in rải rác những năm nhà thơ mặc áo lính. Phần 2 gồm 58 bài, có tên“Thơ lục bát”, phần nhiều viết sau khi rời quân ngũ ở thập niên 80 của thế kỷ 20 đến nay. Dẫu không ghi bìa hai chữ “tuyển chọn” hoặc “tinh tuyển” như nhiều người làm, nhưng với cách cấu trúc tập thơ như thế, người đọc vẫn hiểu đây là tập thơ chọn, hay thơ tuyển. Điều đó được củng cố, khi tiếp tục đi dạo trong vườn thơ Kim Chuông, với những nẻo đường khi êm đềm cát mịn, khi gập ghềnh đất gan gà, khi lại rợp bóng cây xanh. Nhưng dù là đường đi muôn nẻo đến thế, chứ nữa, vẫn làm người đọc hào hứng đến với vườn thơ Kim Chuông. Đây là bài thơ mà nếu chỉ đọc thơ, không đọc dòng tiêu đề “Thơ ngày lính trận” khó có thể tin thơ được viết từ ngày nhà thơ “đầu xanh, tuổi trẻ” từ giã xóm làng lên đường đánh giặc: “Gửi lại xóm làng đêm tiễn đưa/sóng quẫy vầng trăng loang bụi đỏ/nghe gió phương xa thổi dài nỗi nhớ/thoáng đọc thấy buồn vui mắt mẹ/chuyến phà dào dạt sang ngang”. Thì không phải ngày ấy, mà bây giờ ai có dịp đi xa, hẳn mỗi lần nhớ về quê trong lòng cũng cồn lên nỗi nhớ đến thế là cùng. Thơ vượt qua thời gian để đồng hành cùng người đọc.

Thơ Kim Chuông phần nhiều là thế, bất chấp thời gian, mỗi lần có dịp đọc thơ là một lần như sống lại tâm trạng, nỗi niềm không chỉ hôm qua, mà cả hôm nay. Đây là bài thơ mà nếu không có dòng ghi bên dưới “Ất Tỵ-1965”, thì người đọc dẫu tài suy đoán cũng không thể bảo bài thơ viết cách đây ngót nửa thế kỷ: “Như lật lại lòng ta những im ắng năm nào/Những gì bình thường sao hôm nay cũng nhớ/Cối gạo, vườn cau, cầu ao, gốc khế/Người ta đang yêu nghe cũng diết da hơn”. Đấy là tâm trạng anh chàng Kim Chuông ngày đầu nhập ngũ năm 1965, mà ngày nay đọc lại vẫn như rất mới, rất gần với đời thường khi bắt gặp những “Cối gạo, vườn cau, cầu ao, gốc khế” bình dị. Bởi vì thơ Kim Chuông ngay từ những ngày đánh giặc, làm thơ ngỡ chỉ để “trút nỗi nhớ nhà”, thì thơ anh đã như cắm rễ vào cuộc sống, lấy thực tế của mình và đồng đội để tạo lập tứ thơ. Thơ nặng trĩu nỗi niềm và tâm trạng, nên từ bấy giờ, thơ anh đã mênh mang, chới với mà vẫn chân thực, bình thường mà rất đỗi giản dị, nhưng vẫn đằm sâu mê đắm. 37 bài trong phần “Thơ ngày lính trận” được viết chân thực, mang đậm hơi thở cuộc sống người lính, tuy gian khổ nhưng vẫn lạc quan yêu đời, tràn đầy niềm tin và hy vọng. Chỉ có 37 bài nhưng người đọc có thể thấy ở Kim Chuông ngay từ những năm tháng ấy, thơ đã không như một thứ “giải khuây”, lại càng không phải để “tiêu sầu” như ở một số người, mà thực sự đã như một yêu cầu nội tại muốn được chia sẻ, được tái tạo, làm cho cuộc sống lung linh hơn. Tuy viết về thời trận mạc nhưng thơ không đi vào cái gì to tát, ồn ào đạn bom khói lửa mà cứ lặng lẽ khắc họa những nét đời thường, nếu người vô tình có khi không để ý, nhưng với nhà thơ thì lại nhìn ra vẻ lấp lánh của đời sống bình dị ấy.

Nếu phần “Thơ ngày lính trận” nhà thơ như “chớp nhanh” những gì chợt thấy, chợt đến trong cảm xúc, suy ngẫm, thì ở phần 2 với tiêu đề “Thơ lục bát” gồm 58 bài, nhà thơ lại nhào luyện đến thành tinh giữa cái chân chất của đời sống với cảm thức nội tâm một cách hết sức bình dị. Đôi khi cảm giác như với lục bát, Kim Chuông động vào bất cứ cái gì cũng nảy ra thơ. Chỉ một nỗi niềm, tâm trạng tác giả thôi, anh đã có không ít hơn “nửa tá” thơ với những tiêu đề khác nhau nhưng cũng chỉ nói về mỗi cái “tôi”, như: Tôi và em, Tôi và em (2), Lại viết về tôi, Lại viết về tôi nữa, Và lại viết về tôi nữa, Tôi còn chút ấy… Và điều thú vị là ở chỗ “nửa tá” ấy đều là thơ lục bát, nhưng không bài nào giống bài nào, từ cái tứ đến kết chữ, gieo vần. Chẳng hạn hai đoạn thơ này ở hai bài kề nhau: “Em như ráng đỏ chân trời/Tôi con sóng khát tan nơi gọi tìm/Tay em phủi hạt bụi chìm/Tôi rơi xuống đất cháy lên lốc mờ/Em như tăm cá lững lờ/Tôi quăng lưới vớt dọc bờ sông trôi” (Tôi và em). Và: “Tôi như một sợi đàn căng/em như âm hưởng đang nằm lặng im/em như một mảnh trăng chìm/cầm lên thì mất, đứng nhìn thì đau” (Tôi và em- 2). Thơ không chỉ nói một lần, trút vào một bài là hết tứ, mà đôi khi tưởng chỉ một việc ấy, Kim Chuông viết tái viết hồi mà tứ thơ vẫn tuôn trào. Sức sáng tạo của người viết là cả một nghệ thuật “thâm canh” trên mảnh đất riêng mình. Có thể thấy điều ấy ở nhiều trường hợp khi nhà thơ trở đi trở lại với đề tài, nhưng cảm giác vẫn như anh càng viết càng hay, càng nói càng mê. Tôi muốn nói tới những bài thơ anh viết về Thị Màu (trong tích chèo Quan âm thị Kính). Đã có tới hàng chục tác giả làm thơ về người đàn bà đa tình này, vậy mà Kim Chuông vẫn “to gan” làm tới 4 bài thơ lục bát mà không sợ chê “nhàm”. Có lẽ với thơ lục bát, anh “canh điền” Kim Chuông không ngại đưa lưỡi cày trên thửa ruộng đã quá nhiều người cày, vì tin đường cày của mình luôn đặt đúng thớ đất trên xứ đồng màu mỡ quen thuộc của mình. Đây là khổ giữa trong bài “Thị Màu”: “Màu lườm, Màu nguýt nữa đi/Bão giông cấp chín chắc gì đã hơn/Bao người thèm trận, thèm cơn/Thèm danh vọng, thèm tháp son, bạc vàng/Màu thèm chút “tỉnh tình tang…”/Thèm “cơn điên” cả thế gian vẫn thèm/Vị chua táo rụng bên thềm/Màu coi còn sướng hơn nghìn ngai vua”. Còn đây ở bài “Giải oan Thị Màu”: “Người đời miệng lưỡi cay chua /Tội Màu ư, cái tội thừa lửa tim/Người ta biết giấu cái nhìn/Biết đem mình tự nhấn chìm mình đi/Màu không. Chả sợ qué gì/Yếm thì cứ tốc, oản thì cứ phơi/Sướng lên, bé cả ông giời/Tội thì Màu chịu!Hơn ngồi nhịn suông”. Thơ Kim Chuông là thế, không đi vào cái gì to tát mà chỉ nhẹ nhàng, rỉ rả như con nhện giăng mùng bằng những đường tơ bình thường, giản dị, không có sự lắt léo, ỡm ờ, bóng loáng ngôn từ với những câu chữ lạ nhiều khi đến khó hiểu, nhưng đằng sau sự giản dị đến giản đơn lại là vẻ lóng lánh của ý tứ, câu chữ mà mới đọc lên đã tức thì bật dậy như ánh chớp vừa lóe sáng.

Thế nhưng không phải lúc nào và ở đâu anh cũng có được điều đó, mà đôi khi do sự buông thả trong cảm xúc, vội vàng trong giãi bày, nhà thơ đã để cái tình chợt hiện át đi cái tình sâu xa, say đắm, làm cho thơ rơi vào nhiều lời mà ý tứ lại không có bao nhiêu, như khổ thơ này: “Ta dường như cũng si mê/Hoa xuân vây ngợp bốn bề nét trông/Ta say như kẻ “nhập đồng”/Sóng hoa, sóng lá, sóng lòng miên man/Kìa, bao “cô Tấm hội làng”/Bên hoa bỗng hóa thành “nàng Tiên hoa”/Ta làm “hoàng tử” du ca/Mải vui không muốn về nhà nữa đây” (bài “Đi chợ hoa xuân”). Âu cũng là điều khó tránh, khi nhiệt tình sáng tạo và cảm xúc luôn đầy ắp trong lòng nhà thơ dẫu ở tuổi ngoại lục tuần vẫn ham viết, ham chơi, và… ham tình. 

CAO NAM