Cần đưa bằng chứng vi phạm của Trung Quốc trên Biển Đông ra cộng đồng quốc tế

Tin tức - Ngày đăng : 14:53, 29/07/2019

Đó là ý kiến của TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ về việc nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.


TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ 

TS Trần Công Trục cảnh báo tuyệt đối không tạo cơ hội cho Trung Quốc tiếp tục áp dụng kế sách tạo ra tình huống buộc chúng ta phải chấp nhận “chuyên đã rồi”, tiến tới mục tiêu ngắn hạn là “giữ nguyên hiện trạng” vì “đại cục”.

Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông

TS Trần Công Trục cho biết Biển Đông là một vùng biển tiềm ẩn và thường xuyên xảy ra những tranh chấp rất phức tạp.

Trong bối cảnh Trung Quốc, bằng mọi thủ đoạn, đang triển khai một cách mạnh mẽ chủ trương chiến lược độc chiếm Biển Đông. Trung Quốc đã vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông ở trong các vùng biển và thềm lục địa được xác lập theo quy định của Công ước Liên  hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).

TS Trần Công Trục cho hay người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ Việt Nam đã có nhiều biện pháp giao thiệp ngoại giao phù hợp như trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam đã triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật.

“Đây là lần thứ ba trong vòng 10 ngày qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao lên tiếng phản đối hành động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam của nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc, cho thấy lập trường kiên định của Việt Nam về tính chất nghiêm trọng và kéo dài này”, TS Trục nhấn mạnh.

Bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục đia của Việt Nam

Khu vực phía nam Biển Đông là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục đia của Việt Nam, tuy nhiên phía Trung Quốc luôn ngụy tạo đó là một bộ phận của “quần đảo Nam Sa” của Trung Quốc (tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam).

Về vấn đề này, ông Trục cho biết, khu vực phía nam Biển Đông được đề cập là khu vực bãi cạn Tư Chính, Vũng Mây, Quế Đường, Huyền Trân… ở cách đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam công bố năm 1982 dưới 200 hải lý, thậm chí có khu vực ở cách đường bờ biển ven bờ lục địa đối diện cũng xấp xỉ khoảng trên dưới 200 hải lý.

“Chúng tôi chỉ nhấn mạnh đến khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý ở khu vực này, bởi vì còn có ranh giới ngoài của thềm lục địa có thể mở rộng ra đến 350 hải lý, nếu có hồ sơ chứng minh bờ ngoài của thềm lục địa kéo dài ra ngoài giới hạn 200 hải lý và được Tiểu ban ranh giới thềm lục dịa của Liên hợp quốc chấp nhận”, ông Trục chia sẻ.

Vì vây, theo ông Trục, Việt Nam đã và đang tiến hành thăm dò khai thác dầu khí, đã xây dựng các cụm dịch vụ mang tên DK là phù hợp với các quy định về quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo Điều 60, UNCLOS 1982, quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế và Điều 80 quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục địa.

Theo đó, Việt Nam có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56 của UNCLOS 1982 hoặc các mục đích kinh tế khác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việt Nam tuyên bố không cố ý biến các bãi ngầm ở thềm lục địa phía nam thành đảo nổi và không ghép chúng vào quần đảo Trường Sa, đồng thời bác bỏ sự gán ghép này.

Trong khi đó, Trung Quốc xem bãi Tư Chính là một phần của quần đảo Nam Sa thuộc “chủ quyền bất khả xâm phạm” của Trung Quốc. Nhưng lập luận ngụy biện này hoàn toàn trái ngược với những quy định của UNCLOS 1982 và đặc biệt là đã bị phán quyết Tòa Trọng tài quốc tế The Haye năm 2016 bác bỏ.

Cụ thể, liên quan đến quy chế pháp lý của các cấu trúc địa lý của quần đảo Trường Sa, Tòa trọng tài đã tuyên: Các cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao sẽ tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý, trong khi các cấu trúc chìm khi thủy triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy.

Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của chúng và dựa vào các tài liệu lịch sử để đánh giá các cấu trúc. Các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa, nhưng các “đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và không có đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.

Không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. Tòa cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất.

Theo đó, các bãi cạn Vành Khăn, Cỏ Mây, Cỏ Rong… là những rạn san hô, bãi cát ngầm ngập hoàn toàn dưới mặt nước biển được tòa xác định nằm trong vùng đặc quyền kinh tế theo đề nghị của Philippines. Tuy nhiên, tòa đã nói rất rõ: Phán quyết của tòa không giải quyết vấn đề chủ quyền/phân định biển.

Vậy có thể hiểu là riêng vấn đề chủ quyền đối với Vành Khăn, Cỏ Mây, Cỏ Rong…, tòa không ra phán quyết, mà sẽ được các bên liên quan giải quyết về vấn đề chủ quyền lãnh thổ theo nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ.

Đánh giá cao biện pháp ngoại giao của Việt Nam

Liên quan đến phản ứng của phía Việt Nam, ông Trục cho biết ông đánh giá cao biện pháp đấu tranh ngoại giao và phương thức ứng xử trên thực tế của lực lượng chấp pháp của Việt Nam khi phát hiện những hoạt động phi pháp của nhóm tàu Hải Dương 08.

Cụ thể là Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.

Cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam đã cân nhắc một cách thận trọng trước khi áp dụng những hình thức đấu tranh chính trị, pháp lý, tuyên thông thích hợp, khá mạnh mẽ và đúng thủ tục pháp lý hiện hành. Nội dung các văn kiện ngoại giao theo chúng tôi cũng đã phản ánh đầy đử lập trường nói trên của Việt Nam.

Các quốc gia khác, có biển và không có biển, có 3 quyền khi đi vào vùng 200 hải lý thuộc EEZ và thềm lục địa của quốc gia ven biển, bao gồm: quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn dầu ở đáy biển của vùng thềm lục địa.

Tuy nhiên, nếu các quốc gia thực hiện những quyền này mà ảnh hưởng đến các hoạt động thăm dò khai thác, kinh tế hoặc nghiên cứu khoa học của quốc gia ven biển thì phải được sự cho phép của quốc gia ven biển. Nếu không được phép là vi phạm EEZ và thềm lục địa của quốc gia ven biển.

Hơn nữa, theo UNCLOS 1982, việc phát hiện và xử lý các sai phạm có khả năng xảy ra hay đã xảy ra trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các lực lượng chấp pháp trên biển của quốc gia ven biển cũng phải tuân thủ các thủ tục pháp lý chặt chẽ, không được phép xử lý một cách tùy tiện, đặc biệt là hạn chế hoặc thậm chí nghiêm cấm việc sử dung các biện pháp bằng sức mạnh để cưỡng bức, không qua xét xử của các cơ quan tư pháp…

Việt Nam có thể đưa vụ việc ra cơ quan tài phán quốc tế

Ông Trục cũng nhấn mạnh rằng, với phản ứng quyết liệt của Việt Nam và một số nước, có thể nhóm tàu Hải Dương 8 Trung Quốc sẽ rời đi, với lý do là đã hoàn thành một đợt nghiên cứu hoặc vì một nguyên cớ nào đó. Tuy nhiên, chúng ta không thể chủ quan vì có thể đây chỉ là bước thăm dò cuối cùng, trước khi họ có những hành động quyết liệt nhằm hiện thực hóa mưu đồ biến Biển Đông thành ao nhà, biến vùng không tranh chấp thành có.

Bài học lịch sử được rút ra từ sự kiện để cho quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa rơi vào tay Trung Quốc vào các năm 1956, 1974 và 1988, điều cốt tử là không tạo cơ hội cho Trung Quốc tiếp tục áp dụng kế sách tạo ra tình huống buộc chúng ta phải chấp nhận “chuyên đã rồi”, tiến tới mục tiêu ngắn hạn là “giữ nguyên hiện trạng”, vì “đại cục”.

Nếu điều đó xảy ra, đồng nghĩa với việc chấp nhận trên thực tế những hành vi xâm phạn của Trung Quốc; chí ít là chấp nhận chủ trương “gác tranh chấp cùng khai thác” tại các vùng biển, đảo không thuộc về Trung Quôc.

Vì vậy, ông Trục cho rằng, sau khi Việt Nam đã công khai yêu cầu Trung Quốc rút các tàu vi phạm tại vùng biển Nam Biển Đông, nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục thì Việt Nam nên sử dụng hình thức đấu tranh cao hơn về mặt ngoại giao.

Trước hết, Việt Nam nên xúc tiến việc thu thập hồ sơ, bằng chứng có liên quan đến các vi phạm của Trung Quốc, như tọa độ nơi xảy ra vi phạm, các bằng chứng về việc thăm dò, nghiên cứu, các hoạt động gây hấn của các tàu vũ trang của Trung Quốc… để lập hồ sơ pháp lý cho những bước đấu tranh ngoại giao pháp lý tiếp theo. Việt Nam có thể gửi lên các tổ chức liên quan của Liên Hợp Quốc, đưa vụ việc ra các Cơ quan Tài phán quốc tế.

Trên thực địa, các lực lượng chấp pháp cần cảnh giác, kiềm chế, hành xử theo đúng thủ tục pháp lý hiện hành; không mắc bẫy khiêu khích của Trung Quốc để họ kiếm cớ gây đụng độ vũ trang, gây bất ổn, làm ảnh hưởng đến các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý.

Bên cạnh đó, cần công khai các thông tin đúng sự thật, nói rõ đúng sai, thượng tôn pháp luật, thể hiện thiện chí và trách nhiệm của Việt Nam đối với khu vực và thế giới, góp phần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhiều người Việt ở nước ngoài, cũng như cộng đồng quốc tế.

Theo ông Trục, liên quan đến vụ việc này, việc Mỹ nhanh chóng lên tiếng phản đối Trung Quốc cho thấy Mỹ hoàn toàn tán đồng và ủng hộ Việt Nam, quan ngại về các hoạt động nhằm tranh giành vị trí siêu cường của Mỹ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

“Tôi tin rằng các nước khác cũng sẽ ủng hộ Việt Nam vì chúng ta có chính nghĩa và thiện chí. Tôi mong chúng ta có những biện pháp để ASEAN cũng có tiếng nói mạnh mẽ. Đó là sức mạnh giúp ngăn cản các hành động tiếp theo của Trung Quốc. Khi dư luận quốc tế ủng hộ Việt Nam, đó là nguồn sức mạnh giúp chúng ta bảo vệ và quản lý được các quyền và lợi ích hợp pháp trên Biển Đông trong tình hình hiện nay”, ông Trục nhấn mạnh.

PHƯƠNG LINH (t/h)