Vì sao Washington D.C. không thể trở thành tiểu bang thứ 51 của Mỹ?
Tư liệu - Ngày đăng : 15:12, 27/06/2020
Năm 2000, Washington D.C. bắt đầu in khẩu hiệu “Nộp thuế mà không có đại diện” (Taxation Without Representation) trên tất cả các biển số phương tiện giao thông của thành phố, và năm 2016, slogan này được cập nhật thành “Chấm dứt nộp thuế mà không có đại diện” (End Taxation Without Representation).
Dòng chữ trên các biển số xe phản ánh một thực tế rằng cư dân D.C. nộp thuế liên bang mà không có bất kỳ đại diện nào có quyền bỏ phiếu tại Quốc hội Mỹ. Nó cũng thể hiện một phần trong lịch sử lâu dài của cuộc đấu tranh của thành phố nhằm đòi quyền đại diện và tự quản như 50 tiểu bang khác.
Bị tước đoạt quyền thành lập chính quyền địa phương
Washington D.C. vốn là quê hương của người Nacotchtank bản địa, còn được gọi là Anacostan. Sau khi thực dân Anh đuổi người Nacotchtank ra khỏi vùng đất của họ, nơi đây trở thành một phần của hai tiểu bang Maryland và Virginia.
Năm 1790, cả hai bang này đã nhượng lại lãnh thổ để thành lập Quận Columbia (District of Columbia - D.C.) để làm thủ đô nước Mỹ. Vào thời điểm đó, có khoảng 3.000 người sống ở D.C. - quá ít để trở thành một tiểu bang - và những người đàn ông da trắng sở hữu nhà ở D.C. tiếp tục bỏ phiếu ở Maryland hoặc Virginia như trước.
Bắt đầu từ đầu thế kỷ 19, Quốc hội Mỹ thành lập một loạt mô hình chính quyền khác nhau ở D.C. cho phép cử tri bầu một số lãnh đạo địa phương nhưng tước bỏ quyền bầu cử tổng thống hoặc bầu nghị sĩ Quốc hội. Sau đó, vào những năm 1870, Quốc hội tước của D.C. quyền có đại diện địa phương. Các nghị sĩ da trắng không muốn những người đàn ông da đen mới giành được quyền tự do tham gia điều hành thủ đô của nước Mỹ.
Trong cuộc tái thiết sau chiến tranh, người Mỹ da đen chiếm khoảng 1/3 dân số D.C. Ngay khi giành được quyền bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử địa phương vào năm 1867, cộng đồng người da đen nhanh chóng thành lập chính quyền thành phố. Quốc hội đã phản ứng bằng cách giải tán chính quyền đó thông qua các đạo luật mới vào năm 1871 và 1874, cho phép Tổng thống – người mà cư dân D.C. không được quyền bầu – có quyền lực duy nhất để bổ nhiệm các nhà lãnh đạo của D.C. Tổng thống có thể tham khảo ý kiến với Quốc hội khi bổ nhiệm các nhà lãnh đạo này, nhưng vì các cử tri của D.C không có quyền bầu nghị sĩ Quốc hội nên họ không có cách nào để tác động đến các quyết định đó.
Tổng thống, nghị sĩ và nhiều nhân viên liên bang (làm việc tại D.C.) vẫn miễn nhiễm với những thay đổi trên vì họ đã được đăng ký bỏ phiếu tại các bang quê nhà của họ. Những hạn chế về quyền bầu cử và tự quản chỉ áp dụng với cư dân sinh sống toàn thời gian ở D.C. Và, giống như các hạn chế quyền bầu cử mang tính phân biệt chủng tộc mà các tiểu bang miền Nam sử dụng để ngăn người da đen tham gia bầu cử sau cuộc tái thiết, những hạn chế này chủ yếu nhằm trấn áp quyền lực chính trị của người gốc Phi.
John Tyler Morgan, một cựu quân nhân phe Liên minh trúng cử vào Thượng viện Mỹ vào năm 1877, đã nói rõ về ý định này khi tuyên bố Quốc hội đã “đốt cháy chuồng trại để loại bỏ lũ chuột. Những con chuột là người da đen và chuồng trại là chính quyền của Quận Columbia (D.C.)”.
Kỷ nguyên dân quyền mang đến đổi thay
Hệ thống chính trị vào những năm 1870 đã từ chối quyền bỏ phiếu của cư dân D.C. nhằm bầu ra chính quyền địa phương của chính họ cũng như nghị sĩ đại diện ở Quốc hội và Tổng thống Mỹ - người được giao giám sát chính quyền D.C. suốt gần một thế kỷ. Trong thời gian đó, dân số người da đen của D.C. tiếp tục tăng lên. Năm 1957, D.C. trở thành thành phố đầu tiên ở Mỹ có đa số dân là người gốc Phi.
Năm 1970, cộng đồng gốc Phi tại D.C. đạt tới đỉnh điểm với hơn 537.000 người, tương đương 71% dân số. Khi đó, nhiều cư dân da trắng đã chuyển đến sống tại các vùng ngoại ô Maryland và Virginia, nơi họ được hưởng đẩy đủ quyền bầu cử.
Cư dân da đen ở D.C. đã không ngừng đấu tranh để thay đổi tình trạng bất bình đẳng trong phong trào dân quyền và giành được một số chiến thắng quan trọng. Đầu tiên là quyền bầu cử tổng thống và phó tổng thống thông qua Tu chính án thứ 23, được Quốc hội Mỹ phê chuẩn năm 1961. Thành phố đã tổ chức cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên vào năm 1964, bỏ phiếu áp đảo cho tổng thống đương nhiệm Lyndon B. Johnson thay vì đối thủ Barry Goldwater, thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa là người đã bỏ phiếu chống lại Đạo luật Dân quyền vào đầu năm đó.
Tuy nhiên, vẫn có những hạn chế với chiến thắng này. Mặc dù dân số theo cuộc điều tra gần đây nhất của D.C. là hơn 760.000 người, đồng nghĩa D.C. có số dân đông hơn 11 tiểu bang, nhưng họ vẫn không có nhiều đại cử tri hơn các bang có dân số thấp hơn (như Alaska, chỉ có khoảng 226.000 dân). Kể từ năm 1964, D.C. chỉ có ba đại cử tri, một con số thấp nhất, bất kể quy mô dân số của thành phố này.
Cuộc chiến đòi quyền tự quản
Một thế kỷ sau cuộc tái thiết, vẫn còn nhiều thành viên da trắng của Quốc hội không cho rằng một thành phố có dân số da đen lớn như D.C. nên được trao quyền tự quản. John Rarick, Hạ nghị sĩ đại diện bang Louisiana cảnh báo rằng “bất kỳ biện pháp nào trao quyền lực cho chính quyền D.C. đều có thể dẫn đến sự tiếp quản của người Hồi giáo da đen”, theo hãng tin Associated Press năm 1972.
Bất chấp sự phản đối đó, cư dân D.C. đã giành được quyền bầu thị trưởng và hội đồng thành phố thông qua Đạo luật Quy tắc nhà ở mà Quốc hội thông qua năm 1973. Năm 1974, D.C. đã bầu nghị sĩ Dân chủ Walter E. Washington làm thị trưởng đầu tiên. Tuy nhiên, vẫn có những hạn chế về những gì chính quyền tự quản mới có thể làm: Quốc hội có quyền từ chối bất kỳ luật nào mà thị trưởng D.C. và hội đồng thông qua, và trên thực tế họ đã sử dụng nó để bác bỏ nhiều đạo luật mà thành phố đề ra.
Năm 1971, D.C. cũng đã giành được một đại biểu không bỏ phiếu tại Hạ viện Mỹ. Đại biểu này có thể tham gia các ủy ban và phát biểu tại Quốc hội nhưng không có quyền bỏ phiếu phiên bản cuối cùng của bất kỳ đạo luật nào.
Tới năm 1978, Quốc hội Mỹ đã thông qua một sửa đổi hiến pháp, trao cho Washington, D.C. hai suất thượng nghị sĩ và một hạ nghị sĩ được bỏ phiếu. Tuy nhiên, quy định này bị loại bỏ vào năm 1985 do không nhận được sự phê chuẩn cần thiết từ ít nhất 38 tiểu bang.
Washington D.C. có thể trở thành tiểu bang thứ 51 không?
Từ năm 1980, Washington D.C. đã đấu tranh đòi quy chế đại diện Quốc hội thông qua chế độ tiểu bang. Các nhà hoạt động và chính trị gia đã kết nối cuộc đấu tranh của D.C. về giành quyền đại diện với các cuộc đấu tranh tương tự ở các lãnh thổ Mỹ ở hải ngoại như Puerto Rico, đảo Guam, quần đảo Virgin thuộc Mỹ, quần đảo Bắc Mariana và Samoa thuộc Mỹ. Công dân Mỹ sống ở các vùng lãnh thổ này phải trả thuế liên bang nhưng không có thành viên bỏ phiếu trong Quốc hội và cũng không có quyền bỏ phiếu bầu tổng thống.
Nhiều người ủng hộ D.C. trở thành một tiểu bang đã chỉ ra rằng không có lý do nào được hiến định mà Washington D.C., một thành phố rộng 68 dặm vuông với dân số đông hơn bang Utah và Vermont, lại không thể trở thành một tiểu bang.
“Những người phản đối quy chế tiểu bang của Washington D.C. lại đưa ra những lập luận pháp lý quan trọng, cho rằng Hiến pháp đòi hỏi áp đặt thẩm quyền liên bang đầy đủ đối với quận D.C. và do đó phải loại bỏ quy chế tiểu bang”, bà Susan Rice, cựu Cố vấn an ninh quốc gia thời Tổng thống Barack Obama, viết trên tờ New York Times. “Tuy nhiên, Hiến pháp chỉ khẳng định rằng những vùng đất thuộc thẩm quyền liên bang không thể vượt quá 10 dặm vuông mà không cấm vạch ra một khu vực hạn chế nơi đặt các tòa nhà chính phủ - nằm dưới sự kiểm soát của liên bang - trong khi biến phần còn lại của Washington D.C. thành một tiểu bang”.
Quốc hội Mỹ đã đưa ra nhiều dự luật nhằm biến D.C. thành tiểu bang thứ 51, nhưng cho đến nay, không có dự luật nào trong số này vượt qua cả hai viện.
Theo báo Tin tức