Trải qua bao thử thách khắc nghiệt, bắt đầu từ một thanh niên trí thức yêu nước làm thơ, viết báo, Xuân Thủy đã gắn bó máu thịt với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy (người đang phát biểu) - Trưởng đoàn Việt Nam đàm phán tại Paris năm 1968
Trong một lần nhắc về ông Xuân Thủy, Tổng Bí thư Trường Chinh đã nói: “Anh Xuân Thủy có phong cách rất Bác Hồ… Ở anh Xuân Thủy người ta thấy có sự kết hợp hài hòa giữa tài năng và đức độ, giữa tính cách dân tộc truyền thống và văn minh thời đại.”
Kỷ niệm 110 năm ngày sinh ông Xuân Thủy (2.9.1912-2.9.200) - người chiến sỹ cách mạng trung kiên, chính khách tài ba, nhà ngoại giao xuất sắc, nhà báo, nhà thơ với nhiều tác phẩm có giá trị là dịp tìm hiểu về một nhân cách lớn, tấm gương sáng để các thế hệ sau học tập, noi theo.
Tấm gương về trí tuệ và nhân cách lớn
Xuân Thủy tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh ngày 2.9.1912, tại xã Phương Canh, tổng Canh, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ, nay là phường Xuân Phương, thuộc quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước, từ nhỏ Xuân Thủy đã sớm tham gia các tổ chức yêu nước chống Pháp.
Từ năm 1932, Xuân Thủy được giác ngộ và hoạt động cách mạng thông qua báo chí, trong vai ký giả…
Năm 1938, ông bị địch bắt, giam tại Hỏa Lò. Năm 1939, ông bị bắt lần hai, bị đày đi Sơn La, Hà Giang.
Đầu năm 1944, ông bị đưa về quản thúc tại quê nhà, được Đảng đón đi hoạt động bí mật, phụ trách báo Cứu quốc của Tổng bộ Việt Minh.
Năm 1945, ông tham gia Tổng khởi nghĩa và được cử vào Ủy bạn Nhân dân Cách mạng lâm thời Bắc Bộ, rồi làm Trưởng ban Tuyên truyền của Tổng bộ Việt Minh, kiêm Chủ nhiệm báo Cứu quốc.
Cuối năm 1945, ông được cử vào Xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách công tác Tổng tuyển cử Quốc hội khóa đầu tiên, được phân công làm Trưởng Đoàn đại biểu Việt Minh, Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội khóa I.
Sự nghiệp cách mạng của cố Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Xuân Thủy rất đa dạng, phong phú và sôi động. Về mặt Đảng, từ năm 1945, ông là Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ.
Từ 1955-1982, ông là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Trung ương Đảng (1968-1982), Trưởng ban Dân vận Trung ương.
Về công tác mặt trận, từ 1945-1985: Trưởng ban Tuyên truyền Tổng bộ Việt Minh (1945-1948); Ủy viên Thường vụ Tổng bộ Việt Minh (1948-1950); Trưởng ban Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Liên Việt (1951-1954), Bí thư Đảng đoàn kiêm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955-1985).
Về công tác Quốc hội, ông đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là đại biểu Quốc hội từ khóa I (1946-1960) đến khóa VII (1981-1987), Ủy viên Thường trực, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký nhiều khóa, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước, có nhiều đóng góp về lập hiến và lập pháp của Quốc hội.
Nhà ngoại giao xuất chúng
Khởi đầu sự nghiệp ngoại giao ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Xuân Thủy đã nhiều lần tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh hoặc cùng các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu đàm phán trực tiếp với các tướng lĩnh của Tưởng Giới Thạch và Việt Quốc, Việt Cách; giải quyết việc thành lập Chính phủ Liên hiệp, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ những thành quả Cách mạng Tháng Tám.
Ông được đánh giá là người hoạt động xuất sắc trong cả ba “binh chủng” đối ngoại: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Ông cũng là Trưởng ban Đối ngoại Trung ương những năm từ 1961-1979. Đây là giai đoạn khó khăn khi phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khủng hoảng về đường lối, có bất đồng và chia rẽ sâu sắc, cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam phát triển mạnh, cần sự ủng hộ quốc tế.
Giai đoạn này, ông được giao thêm nhiệm vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (4/1963-4/1965). Hoàn cảnh khó khăn đó càng làm nổi bật bản lĩnh và tài trí của nhà ngoại giao Xuân Thủy.
Ông nỗ lực xử lý bất đồng Xô-Trung thời điểm 1961-1975, nhắc nhở cán bộ Bộ Ngoại giao bình tĩnh, tránh bàn luận, phê phán bên này, bên kia.
Ông nói: “Mình phải lấy lợi ích của cách mạng làm cơ sở. Lợi ích của cách mạng là đoàn kết.”
Ông cũng đảm nhận Trưởng ban Công tác miền Tây, Ban Công tác của Trung ương phụ trách giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng Việt Nam, Lào và Campuchia.
Được Đảng tin tưởng trao trách nhiệm xây dựng công tác ngoại giao nhân dân, ông phụ trách công tác này cho đến năm 1975, có công rất lớn trong việc hình thành và phát triển rộng rãi nền ngoại giao nhân dân nước ta, là Tổng chỉ huy đối ngoại nhân dân, trực tiếp làm Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam (1952), Phó Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Á-Phi của Việt Nam (1957), Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới (1954)…
Với tài tổ chức và thuyết phục, ông Xuân Thủy đã nói lên tiếng nói của nhân dân ta, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, đóng góp quan trọng hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, góp phần xây dụng cơ sở cho nền ngoại giao nhân dân mang đậm bản sắc Việt Nam ngày nay.
Nụ cười Xuân Thủy
Dấu ấn đậm nét nhất trong sự nghiệp ngoại giao của Xuân Thủy là thời kỳ từ năm 1968-1973, với tư cách Bộ trưởng, Trưởng đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris về Việt Nam. Đây là một trong các trang sử chói lọi của ngành ngoại giao Việt Nam, đặc biệt là trong thời đại Hồ Chí Minh; đồng thời là một trong các sự kiện quốc tế rất quan trọng của thế kỷ XX.
Gần 5 năm đàm phán, trong khi phía Mỹ bốn lần thay trưởng đoàn thì đồng chí Xuân Thủy trước sau vẫn là Trưởng đoàn của Đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chia sẻ về ông Xuân Thủy, Đại sứ Phạm Ngạc, thành viên Đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, cho biết: “Ông là linh hồn của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam. Với phong thái chững chạc, phát biểu mạch lạc, đối đáp sắc sảo, nụ cười tươi tắn, ông là hình ảnh của các sứ thần Việt Nam xưa, đầy đủ bản lĩnh đối phó và đề cao tự tôn dân tộc. Ông có gốc Nho học thâm thúy, nhưng lại tiếp thu nhanh nhạy văn hóa phương Tây."
"Tại Paris, ngay những ngày đầu tiên qua các cuộc họp báo và tiếp xúc với các đoàn, các tổ chức chính trị của Pháp và thế giới, ông đã chinh phục được thiện cảm của họ. Trong Hội nghị chính thức, ông nêu lập trường chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, ủng hộ đề nghị hợp tình hợp lý của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, phê phán quan điểm sai trái của đối phương. Sau những bài phát biểu chính thức lần lượt của bốn đoàn, sang phần phát biểu thêm, ông luôn luôn tỏa sáng với cách đối đáp sắc sảo và ý nhị của mình, có lúc làm đối phương phải tán thưởng và khâm phục,” Đại sứ Phạm Ngạc chia sẻ.
Cũng theo Đại sứ Phạm Ngạc, trong sinh hoạt nội bộ đoàn, ông Xuân Thủy luôn là người anh Cả được mọi người thán phục và quý mến. Ông làm gương trong công tác đối ngoại, chặt chẽ về đường lối, linh hoạt trong biện pháp, góp ý thân tình về những sai sót, khiếm khuyết của cán bộ. Tuy bệnh hen luôn hành hạ, nhưng ông vẫn dự đều các phiên họp kéo dài suốt ngày và tới đêm khuya, vẫn tươi tỉnh để tiếp khách và bạn bè.
“Ông Xuân Thủy luôn hòa nhập cùng nhân viên Việt Nam và Pháp, đánh cờ, trò chuyện, chơi boule (bi sắt). Ông đặc biệt quan tâm giúp đỡ đoàn miền Nam và những người có hoàn cảnh gia đình khó khăn; thực sự chinh phục được trái tim và khối óc của mọi người; xứng đáng là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh,” Đại sứ Phạm Ngạc nói.
Lịch sử sẽ mãi ghi những nét son tên tuổi và hình ảnh của nhà ngoại giao xuất sắc và đức độ Xuân Thủy, với nụ cười chiến thắng, người từng đem hết tâm huyết và tài năng của mình vào cuộc đấu tranh quyết liệt giữa ta với Mỹ tại Hội nghị Paris về Việt Nam cho đến khi toàn thắng.
Nhà báo Nguyễn Minh Vỹ, Phó Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã viết: "Ông có nụ cười rất đẹp, tự nhiên, ung dung, tự tại, có ý nghĩa sâu sắc bên trong, làm cho mọi người có cảm tình. Nụ cười đó đã thuyết phục các nhà báo thuộc mọi khuynh hướng. “Nụ cười đó, suy rộng ra, không phải là nụ cười của cá nhân Xuân Thủy, mà là nụ cười của cả nhân dân Việt Nam...”
Vị Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhà báo Việt Nam
Không chỉ là một nhà ngoại giao xuất chúng, tài hoa, đức độ, ở ông Xuân Thủy còn thể hiện trên nhiều vai trò như nhà báo, nhà thơ…
Ngay từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, ông Xuân Thủy đã có dấu ấn trong những vai trò này.
Nhà báo Xuân Thủy, người quàng khăn ngồi giữa, và đồng nghiệp khi làm báo Cứu Quốc tại Chiến khu Việt Bắc
Ngay từ lúc ngoài 20 tuổi, ông đã là ký giả, có bài đăng trên các báo “Tin tức,” “Đời nay”…, là thông tin viên cho tờ Trung Bắc Tân văn và từ năm 1932 hoạt động cách mạng thông qua báo chí.
Bút danh Xuân Thủy ra đời trong thời kỳ này và trở thành tên gọi của ông cho đến khi qua đời.
Từ năm 1938 đến 1943, vì những hoạt động chống thực dân, ông nhiều lần bị bắt giam, bị đưa đi lưu đày.
Trong nhà tù Sơn La, ông cùng bạn tù là Nhà báo Trần Huy Liệu tiếp tục bí mật làm tờ Suối Reo, ra 2 tháng một số, động viên các bạn tù kiên trì vượt khó, chờ đợi thời cơ cách mạng.
Ngày 25.1.1942, báo Cứu quốc - cơ quan tuyên truyền tranh đấu của Tổng bộ Việt Minh ra đời.
Hai năm sau, ông được thả và trở lại hoạt động cách mạng trong phong trào Việt Minh, được cử làm Chủ nhiệm tờ Cứu quốc.
Lúc này, ông phụ trách tờ báo trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Trường Chinh.
Từ đây và nhiều năm sau đó, ông dành nhiều tâm lực cho việc tổ chức và phát triển báo Cứu quốc với những bài báo, trang báo, số báo nóng bỏng khí phách cách mạng và hồn non nước, mở ra một trang sử mới cho nền báo chí cách mạng Việt Nam.
Gắn bó với nghiệp cầm bút, nhà báo Xuân Thủy thường viết xã luận và bình luận, viết ca dao bằng nhiều hình thức khác nhau.
Ông viết hàng nghìn bài trên mặt báo trong thời kỳ chống thực dân Pháp với lời văn hùng hồn, tha thiết, mạch lạc.
Tối 19/12/1946, khi Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi mệnh lệnh chiến đấu của Bộ trưởng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, cũng là lúc báo Cứu quốc chuẩn bị cho ra số đặc biệt với lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bài xã luận ký tên Xuân Thủy trên trang nhất báo Cứu quốc.
Những năm sau đó, trên báo Cứu quốc liên tục xuất hiện tác phẩm của ông viết về những vấn đề cấp bách, những sự kiện có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của đất nước.
Những bài viết chứa đựng tính nhân văn, dân tộc và tính chiến đấu cao, ca ngợi cuộc đấu tranh của nhân dân ta, kêu gọi nhân dân đoàn kết, ủng hộ kháng chiến; lên án tội ác và vạch trần những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ tuyên truyền, cổ động cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc.
Cuối năm 1945, nhà báo Xuân Thủy vận động các ông Nguyễn Đức Thuyết, Chủ nhiệm báo Vì nước ra đời sau Cách mạng Tháng Tám và nhà báo Nguyễn Tường Phượng, Chủ nhiệm Tạp chí Tri Tân, tham gia thành lập tổ chức của người làm báo Việt Nam.
Sau đó, Đại hội báo giới được tiến hành theo chương trình nghị sự, “Đoàn báo chí Việt Nam” ra đời.
Theo đề cử của ông, nhà báo Nguyễn Tường Phượng được giữ chức Chủ tịch Đoàn.
Trên cơ sở đó, năm 1950, tại Quảng Nạp (thuộc chiến khu Việt Bắc), ông Xuân Thủy lại đứng ra triệu tập các nhà báo, mở Đại hội thành lập “Hội những người viết báo Việt Nam” (từ năm 1959 đổi tên là Hội Nhà báo Việt Nam) và ông được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của hội.
Theo sáng kiến của ông và sự đồng ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đầu năm 1949, lớp dạy học báo chí cách mạng mang tên Huỳnh Thúc Kháng thành lập, được coi là khóa dạy báo chí cách mạng đầu tiên ở Việt Nam.
Trong quá trình làm báo, nhà báo Xuân Thủy cũng có những đóng góp quan trọng trong chỉ đạo, trực tiếp chuẩn bị cho sự ra đời của một số cơ quan báo chí lớn của đất nước, như Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam…
Lịch sử sẽ mãi ghi những nét son tên tuổi và hình ảnh của nhà ngoại giao xuất sắc và đức độ Xuân Thủy, một nhà báo, nhà thơ tâm huyết, tài hoa.
Ông như một vì sao còn mãi giữa lòng dân tộc, giữa quê hương, như trong một câu đối mà một vị hòa thượng viết tặng: “Xuân khứ, Xuân lai, Xuân bất tận/ Thủy lưu, Thủy chuyển, Thủy trường tồn”.
Theo TTXVN