Ly kỳ tấm bia hơn 300 năm bị vua Thiệu Trị lệnh 'nhốt' vào ngục như tù nhân

15/11/2016 08:00

Một tấm bia ghi lại lời di nguyện của đại danh y Tuệ Tĩnh cách đây hơn 300 năm được nhân dân vái lạy, thờ cúng, còn vua Thiệu Trị ra lệnh 'nhốt' trong ngục thất.



Ông Thành giới thiệu về tấm bia khắc lời di nguyện của đại danh y Tuệ Tĩnh


Đền Bia, một di tích cấp quốc gia ở thôn Văn Thai, xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương, là nơi thờ tự đại danh y Tuệ Tĩnh và phối thờ danh nhân Nguyễn Danh Nho (1638 - 1699), đỗ tiến sĩ dưới đời vua Lê Huyền Tông, được giữ chức Tả ti giám, Hiến sát sứ, sau thăng đến Bồi Tụng hữu thị lang, tước Nam.

Ngôi đền này mang tên một cổ vật, đó là tấm bia đá xanh nặng 75 kg, hình hộp đứng, đỉnh bia là búp sen, được đặt trong long đình, bưng kính xung quanh, để ở phía sau tượng Tuệ Tĩnh. Tấm bia đá cổ làm năm 1699, thời Lê Trung Hưng, khắc hai dòng chữ là lời nhắn của đại danh y, thiền sư Tuệ Tĩnh: “Về sau có ai bên nước nhà sang, nhớ cho hài cốt tôi về với”, nhưng đã bị đục mờ. Mặt hai bên cạnh có gờ chỉ chạy xung quanh bia và cũng khắc chữ nhưng bị đục hết. Bề mặt tấm bia loang lổ lớp sơn son thếp vàng.

Cổ vật xứ Đông - Ly kỳ tấm bia hơn 300 năm bị vua Thiệu Trị lệnh ‘nhốt’ vào ngục như tù nhân 2


Tấm bia loang lổ sơn son thiếp vàng, phần khắc lời di nguyện của Tuệ Tĩnh bị vua Thiệu Trị ra lệnh đục xóa


Ông Hà Quang Thành, Phó ban quản lý di tích huyện Cẩm Giàng giới thiệu tấm bia này có xuất xứ và số phận “chìm nổi” y như cuộc đời của “vị thánh thuốc nam” Tuệ Tĩnh. Theo sử sách ghi lại, khi đi sứ sang nước Minh vào năm 1384, Tuệ Tĩnh đã chữa khỏi bệnh cho hoàng hậu Tống Vương Phi và được vua Minh cảm tài phong cho danh hiệu Đại y thiền sư, lưu ông ở Kim Lăng (Trung Quốc). Được trọng dụng nhưng người con đất Việt này luôn nhớ về quê hương, đất nước, biết số phận mình sống nhờ thác gửi nên đã di ngôn để tạc vào bia mộ dòng chữ: “Về sau có ai bên nước nhà sang, nhớ cho hài cốt tôi về với”. Một thời gian sau ông mất ở Giang Nam (Trung Quốc).

Năm 1699, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đi sứ sang nhà Thanh, đến Giang Nam tình cờ thấy mộ Tuệ Tĩnh, nhận ra là người cùng làng Nghĩa Phú (tục gọi là làng Xưa, thuộc tổng Văn Thai, phủ Thượng Hồng, nay là xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng). Cảm động với lời nhắn gửi thiết tha của vị đại danh y, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đã xin với vua Thanh đưa hài cốt Tuệ Tĩnh về nước nhưng không được chấp thuận. Ông thuê người sao chép bia mộ, rồi khi về nước đã đến vùng Kinh Môn thuê thợ khắc lại tấm bia đá.

Cổ vật xứ Đông - Ly kỳ tấm bia hơn 300 năm bị vua Thiệu Trị lệnh ‘nhốt’ vào ngục như tù nhân 2


Tấm bia được thờ trang trọng phía sau tượng Tuệ Tĩnh trong hậu đường đền Bia


Thuyền chở bia trên sông Thái Bình, đến cánh đồng Văn Thai ở địa điểm tiếp giáp với làng Nghĩa Phú quê hương của Tuệ Tĩnh thì bị lật, bia rơi xuống và không lấy lên được. Ít lâu sau nước cạn người dân đã tìm thấy tấm bia. Thấy doi đất ở đây có hình con dao cầu chuyên thái thuốc nam, người dân cho rằng đây là nơi địa linh nên đã dựng bia tại nơi đây để thờ cúng, cách quê hương Tuệ Tĩnh khoảng hơn 1 km.

Ông Thành cho biết: “Người xưa kể lại hễ ai đi qua đều ném đất vào để đền thờ cao dần lên và mong buôn bán đắt hàng. Từ khi lập nên đền Bia, hàng nghìn người dân từ khắp nơi kéo về lấy thuốc, hái lá và xin nước ở đền Bia để uống cầu mong khỏi bệnh. Năm nào cũng vậy, xong ngày lễ hội vào 1-4 âm lịch là đền lại bốc cháy nhưng người dân đi qua đền đều cúi đầu vái lạy tấm bia”.

Năm 1846, vua Thiệu Trị cho rằng "đây là việc mê tín dị đoan nên đã hạ chiếu cấm việc cúng bái và xin thuốc ở đền Bia”. Nhà vua đã sai người đục hết chữ trên tấm bia và mang “nhốt” vào trong ngục thất, cho người canh gác cẩn mật. Vào một đêm trời mưa gió, một người làng Văn Thai làm lính canh đã bí mật đào tường, đưa tấm bia về cất giấu ở nhà Tổ chùa Văn Thai, rồi sơn vàng tấm bia, xây kín lại để tránh bị phát hiện.

Cổ vật xứ Đông - Ly kỳ tấm bia hơn 300 năm bị vua Thiệu Trị lệnh ‘nhốt’ vào ngục như tù nhân 4


Bệ đá đặt tượng Tuệ Tĩnh do ông chánh tổng Nam Sách Lưu Sinh cung tiến năm 1940 sau khi
 đến đền Bia xin thuốc về uống và khỏi bệnh


Ngày tổ chức lễ hội, tấm bia được đem ra đền Bia, khách thập phương lại đến xin thuốc và cung tiến tiền để tu sửa đền. Tương truyền, tiền công đức nhiều tới mức đựng hàng thúng, xây đền không hết, dân làng đã mua đá xanh về lát đường làng Văn Thai. Trong đó phải kể đến chuyện ông chánh tổng Nam Sách tên là Lưu Sinh bị tai biến, không đi lại được, đã nhờ người đưa đến đền Bia xin thuốc về uống và khỏi bệnh. Để tỏ lòng biết ơn, năm 1940, ông đã bỏ tiền ra thuê thợ tạc bệ đá đặt tượng Tuệ Tĩnh như ngày nay.

Theo ông Hà Quang Thành, tấm bia đá là hiện vật độc đáo của di tích đền Bia, gắn với đại danh y, thiền sư Tuệ Tĩnh, ông tổ nghề y học cổ truyền đề cao phương châm: “Nam dược trị Nam nhân”. Cả cuộc đời Tuệ Tĩnh luôn gắn với sự nghiệp thuốc nam, nghiên cứu những bài thuốc chữa bệnh cho dân chúng. Tấm bia thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của Tuệ Tĩnh, dù bên xứ người nhưng ông vẫn đau đáu một tấm lòng hướng về quê hương, đất nước.

“Hiện nay, hằng ngày đền Bia đón tiếp nhiều du khách đến thắp hương, vãn cảnh và xin thuốc nam về uống, trong đó có nhiều sinh viên trường y dược trên cả nước đi thực tế. Chúng tôi đang làm hồ sơ để trình lên cấp trên đề nghị công nhận tấm bia là bảo vật quốc gia”, ông Thành cho biết.

Cổ vật xứ Đông - Ly kỳ tấm bia hơn 300 năm bị vua Thiệu Trị lệnh ‘nhốt’ vào ngục như tù nhân 4

Đền Bia được xây dựng trên doi đất hình con dao cầu dùng để thái thuốc nam

Cổ vật xứ Đông - Ly kỳ tấm bia hơn 300 năm bị vua Thiệu Trị lệnh ‘nhốt’ vào ngục như tù nhân 6

Đền Bia được xếp hạng di tích quốc gia năm 1995

Cổ vật xứ Đông - Ly kỳ tấm bia hơn 300 năm bị vua Thiệu Trị lệnh ‘nhốt’ vào ngục như tù nhân 7

Nhà đặt bia giới thiệu thân thế, sự nghiệp đại danh y Tuệ Tĩnh đặt ở hồ nước trong đền




Một vườn thuốc nam xanh mướt trong khuôn viên đền Bia


VŨ NGỌC KHÁNH (Thanh niên)

(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Ly kỳ tấm bia hơn 300 năm bị vua Thiệu Trị lệnh 'nhốt' vào ngục như tù nhân