Các trường hợp công chức chưa phải chuyển đổi vị trí công tác

17/03/2020 14:52

Có 5 trường hợp chưa phải chuyển đổi vị trí công tác và chỉ có duy nhất một trường hợp không phải chuyển đổi vị trí công tác.

Để phòng ngừa tham nhũng, một số cán bộ, công chức phải định kỳ luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp ngoại lệ chưa phải chuyển đổi vị trí công tác.

Định kỳ phải đổi vị trí công tác 2-5 năm/lần

Theo quy định tại điều 25 Luật Phòng, chống tham nhũng mới có hiệu lực từ 1-7-2019, người có chức vụ, quyền hạn phải chuyển đổi vị trí công tác khi làm việc tại một số vị trí liên quan đến: Công tác tổ chức cán bộ; quản lý tài chính công, tài sản công đầu tư công; tiếp xúc trực tiếp và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác; không chỉ vậy, những người không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và viên chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị cũng phải chuyển đổi vị trí công tác nhằm phòng ngừa tham nhũng (điều 24 Luật Phòng chống tham nhũng).

Các trường hợp công chức chưa phải chuyển đổi vị trí công tác - Ảnh 1.
Theo quy định, kể cả những người không giữ chức vụ, quản lý, lãnh đạo cũng phải định kỳ chuyển đổi vị trí công tác

Do đó, có thể thấy, không chỉ riêng người có chức vụ, quyền hạn làm việc tại một số vị trí như trên mà kể cả những người không giữ chức vụ, quản lý, lãnh đạo cũng phải định kỳ chuyển đổi vị trí công tác nhằm phòng ngừa tham nhũng.

Trong đó, khoản 2, điều 25 luật này nêu rõ: Thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác là từ đủ 2 năm đến 5 năm theo đặc thù của từng ngành, lĩnh vực. Theo quy định này, tùy vào từng ngành, lĩnh vực khác nhau mà thời hạn chuyển đổi sẽ khác nhau nhưng không thấp hơn 2 năm và tối đa không quá 5 năm.

Đặc biệt, thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ sẽ do bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ quy định (khoản 1, điều 36 Nghị định 59/2019/NĐ-CP). Đồng thời, việc chuyển đổi này phải bảo đảm khách quan, hợp lý, phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ và không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức đơn vị.

Không chỉ vậy còn không được lợi dụng việc chuyển đổi vị trí công tác vì vụ lợi hoặc để trù dập cán bộ, công chức, viên chức mà phải được thực hiện theo kế hoạch cũng như phải công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Do đó, theo quy định trên, công chức ở một số vị trí nhất định phải định kỳ chuyển đổi công tác thời hạn từ 2 - 5 năm để phòng, chống tham nhũng.

Không phải trường hợp nào cũng phải chuyển đổi

Mặc dù việc thực hiện chuyển đổi vị trí công tác là một trong những biện pháp có hiệu quả trong việc phòng chống tham nhũng nhưng không phải trường hợp nào cũng phải chuyển đổi. Theo đó, tùy vào từng ngành, lĩnh vực nêu tại phụ lục Nghị định 59 mà thực hiện chuyển đổi vị trí công tác từ bộ phận này sang bộ phận khác; giữa các lĩnh vực, địa bàn được phân công, theo dõi, phụ trách, quản lý…

Điều 38 Nghị định 59 liệt kê một số trường hợp chưa thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác, gồm: Người đang trong thời gian bị xem xét, xử lý kỷ luật; người đang bị kiểm tra, xác minh, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử; người đang điều trị bệnh hiểm nghèo (có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền); người đang đi học tập trung từ 12 tháng trở lên; người đang biệt phái; phụ nữ đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; nam giới đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi do vợ mất hoặc trong trường hợp khách quan khác.

Đặc biệt, người có thời gian công tác còn lại dưới 18 tháng cho đến khi đủ tuổi nghỉ hưu sẽ không phải chuyển đổi vị trí công tác.

Theo Người lao động

(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Các trường hợp công chức chưa phải chuyển đổi vị trí công tác