Minh họa: Văn Hà
Tôi gặp lại chị Hoài ở quãng sông chiều. Con nước ròng trơ cát, đen thẫm lục bình lẫn trong gió lạnh réo rắt. Tôi như người xa quê mong gặp người thân đầu làng nên tò mò nhìn người đàn bà đang cắm cúi nhặt hàu hến trước mặt. Có nét thân quen nào đó chưa định hình trong tâm tưởng trước thân hình rách rưới, bờ vai như lệch đi trong nắng chiều chênh chếch bãi sông. Chị cúi mặt khom người tìm kiếm khi tôi nhẩn nha đi tiếp và dừng lại để quay người nhìn chị lần nữa. Gió cuộn vào lưng, quấn quít vạt áo như thôi thúc tôi trở lại để đến bên người đàn bà. Chị im lặng nhìn, mắt mở to, thoáng lâu rồi ngập ngừng nói khẽ: “Phải cậu Nam?”. Tôi khẽ gật. Nhưng chịu. Xa lạ đến ngỡ ngàng bởi đối diện là người đàn bà xanh mét, gầy gò trong bộ đồ ngắn cũn cỡn, khuôn mặt lấp sâu dưới vành nón lá rách bươm. “Chị là ?...”, có tiếng thở dài trong gió vờn mặt sông gợn sóng và câu nói trong chiều đang dần sập tối: “Cậu quên tôi rồi...”. Người đàn bà lần gỡ nón, mặt ngước về bãi sông dập dờn lau lách. Tôi kêu lên, run run: “Chị Hoài!”. Tôi nghe có tiếng khóc nấc đến tê tái và bước tới đạp tung chiếc rổ tre có nắm hàu hến văng vung vãi. “Sao chị đến thế này ? Hơn mười năm, chị tôi, con sáo sang sông, lấy chồng đi xa... Sao về bến cũ?...”.
Xưa kia, chị đẹp nhất làng và thương tôi nhất. Tôi là con chim xanh trong mối tình của chị từ bến sông này sang bến sông kia. Con chim mồ côi trong vòng tay khẳng khiu của bà và được e ấp bởi đôi tay căng đầy sức sống là chị. Tôi nhớ năm xưa tóc chị dài đen nhánh chảy mềm mại hay xoã tung theo gió thoảng hương bồ kết mà tôi từng trèo hái cho chị gội đầu ở vườn nhà xanh lá. Chị đẹp trong làn da bánh mật, mắt tròn đen hiền hòa mà tôi thường ví “Giống mắt trâu nhà hương Cả”. Mỗi lần cùng tắm nơi bàu súng, khi nước thấm đẫm vai chị, thít chặt, hiện lồ lộ bờ vai căng tròn để tôi dựa vào đó cất tiếng kêu thảng thốt “Mẹ ơi!”, để được nghe chị cười nho nhỏ, cắn tai nói khẽ “Chó con, yên nào, tội nghiệp” rồi vòng tay ôm chặt. Năm hội làng vào xuân, chị phải năn nỉ ngoại cho tôi cùng chị sang làng bên xem hát. Trước khi vượt bãi dâu sang trảng cát bập bùng tiếng trống phải qua cây gạo um tùm nổi tiếng ma nhát người. Chị ôm chặt lấy tôi thở dồn và rón rén, tôi ngập trong hơi ấm của lồng ngực chị để trở nên bạo dạn mà đưa chị vượt qua. Trong tiếng thở phào, chị hôn tôi “Ôi, em của chị!”. Và trong hội làng hôm đó, chị bỏ tôi đứng một mình trong tích Phàn Lê Huê nhộn nhịp để hẹn hò cùng thầy giáo làng nơi bãi sông. Tôi giận lẫy khi ánh trăng khuya chênh chếch đầu núi và tiếng gà gáy trong mù sương khi chị đến bên. Đêm đó, tôi ngủ yên bên chị để mơ thấy mẹ về, mẹ ôm tôi hôn khắp người, khẽ ru trong vòng tay ấm và suối tóc chảy tràn quanh người. Tôi nức nở choàng vội vòng tay nhỏ nhoi vào cổ mẹ để trong cơn mơ màng, tôi hôn mẹ dạt dào, bíu lấy vòng ngực săn chắc đầy cảm giác, ấp mặt vào bờ vai tròn trịa để nhận thấy là lạ nên mở bừng mắt nhận ra chị Hoài bên cạnh... Vài tháng sau, chị đi lấy chồng. Tôi thẩn thờ mỗi khi chiều xuống với ánh mặt trời dần tắt khẽ chao trên bầu súng với tiếng cuốc gọi bạn lẻ loi vọng về mà nhớ chị rồi tôi rời làng quê, lên phố trọ học.
Ngoại yếu nhiều. Hèn gì cậu cho người gọi về. Ở đây ai cũng già, cũng đen đủi và đầy tiếng thở dài. Trong đêm đen tù mù ngọn đèn dầu hắt lên bức tường đất nham nhở từ thuở xa xưa, giờ thay vào là bức tường vôi cùng ngọn điện lập lè không đủ sáng. Xa đường, ngõ chợ cách một quãng sông dài. Làng cũ như đứng ngoài rìa xã hội và qua lời ngoại kể về chị Hoài: “Nó sang sông theo chồng, lâu con không gặp, nhưng rồi hơn mười năm nó lại về...”. Ừ. Chị về không như ngày trước thuở cùng tôi vui đùa mà trở về trong bệnh tật cùng với người chị lẩn thẩn, mảnh vườn gần nhà tôi một thời xanh lá nhờ bàn tay chị đã qua tay người khác. Người thầy giáo làng một thời thơ văn nổi tiếng của xã có hai dòng sông đi qua, đã nhảy tọt lên tỉnh làm công tác văn hóa rồi sang ngang với chị để lấy người vợ đất phố, quên đi vùng sình lầy cũ, quên đi những buổi ngóng trông từ phía bãi sông chang nắng có người vợ đi về và quên cả bóng đứa học trò ngày cũ từng vượt sông dấm dúi cho thầy bức thư tình chân chất.
Tôi đến thăm chị lúc chập choạng tối, bóng dơi bay thấp thoáng bên trên căn nhà mái rạ sát cây đa già buông rễ một thời nổi tiếng ma nhát người, ma cười khanh khách đêm trăng, ma ru con hời hời. Giờ chị ở cùng nó trong tĩnh lặng.
-Nghĩ gì vậy Nam? - Tiếng chị nhỏ, thoảng qua không chen hết tiếng nói bên rào nhà hàng xóm.
-Em nghĩ thuở nhỏ có chị.
-Ngày đó chị cũng có em. Tiếng chị hụt hẫng.
Phải. Ngày đó tôi xem chị Hoài như người mẹ. Dù chị hơn tôi chỉ tám tuổi. Đi học được chị đưa sang sông đến trường nên chị quen ông giáo làng nhờ đó tránh được đòn roi và lũ bạn cùng lứa bắt nạt. Nhưng cũng tại ông giáo làng... Và cũng tại trai làng hay chọc ghẹo chị: “Chị chị, em em...”. Để cho chị bao lần đỏ mặt, thẹn người nắm tay tôi lôi đi xềnh xệch trong tiếng cười khoái trá vang vọng. Tôi hỏi một câu ngoài ý muốn: “Thầy có trở ngại thăm chị?”. Chị Hoài lắc đầu nói nhỏ: “Không, vả lại chị đã đồng ý...”. Đêm, chị nói trong tiếng vạc văng vẳng bay qua và tôi vai áo dần thấm đẫm sương đêm cùng tiếng thở dài.
Giờ chị ra bãi sông kiếm sống, người đàn bà cô độc như cánh cò đơn lẻ lại chao đi trong nắng và co ro vào những buổi chiều đông. Tôi ứa nước mắt đêm đó và cả sáng hôm sau chị tiễn tôi rời làng. Lùm cây gạo xưa kia đang ra hoa đỏ ối và in đậm bóng chị trên nền trời. Tôi ngoảnh lại lần nữa khi đò đến giữa dòng, từng cụm lục bình trôi nổi với màu tím sẫm nguyên sơ với phía xa nơi làng quê cũ, là dáng chị, luỹ tre và những bông lau vẫn rập rờn chao đảo.
Con sáo sang sông tả tơi lông cánh trở về.
Còn tôi, con sáo qua sông lại bay xa không dịp quay lại quê nhà từ lúc gặp chị và cả lúc từ chốn phồn hoa được tin ngoại mất. Mười năm tiếp theo, tin làng đã thay đổi nhiều, còn chị?...
Truyện ngắn của HUỲNH THẠCH THẢO