Trong số 50 bài thơ của tập “Về lại triền sông” thì có tới 20 bài viết về quê hương, cha mẹ, nhắn nhủ các con không được phép lãng quên gốc rễ, cội nguồn.
Tháng 9.2017, Nhà xuất bản Văn học phối hợp với Công ty Truyền thông Liên Việt ra mắt bạn đọc tập thơ “Về lại triền sông” của nhà báo, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương. Tập thơ khá dày dặn gồm 50 bài thơ và 10 ca khúc là lời thơ của tác giả đã được các nhạc sĩ phổ nhạc. Tác giả chia tập thơ ra thành ba ý chủ đạo “Câu hát và ngọn lửa”, “Trong trẻo đất quê”, “Ấm áp mặt trời lên” là 3 phần nội dung của tập thơ.
Như lời tự bạch của tập thơ “Những ai đó làm thơ, nếu muốn in thơ, có lẽ nên sơm sớm một chút. Mà tôi thì đã quá muộn”, lẽ ra phải sớm, rất sớm với một người đi nhiều, viết nhiều như ông và đảm đương những trọng trách trong ngành văn hóa nghệ thuật. Đọc lời mở đầu, ông chia sẻ những bài thơ này được ghi lại bằng những cảm xúc đến từ những chuyến đi, từ công việc hằng ngày, thậm chí “hơn nửa trong số đó được viết trên máy điện thoại cầm tay và trên Facebook".
Ở phần “Câu hát và ngọn lửa” gồm 17 bài, đó là những sáng tác với cảm hứng từ tình yêu quê hương đất nước, những cảm xúc tuôn trào của nhà thơ về thăm quê Bác: … Ơi quê mẹ quê cha/ Thành quê chung đất nước/ Nên dáng hình Tổ quốc/ Làng Chùa và làng Sen (trong bài thơ Quê chung).
Tổ quốc, trong thơ ông, đó là: Máu Vị Xuyên, Gạc Ma… bầm chát/ Vạn nghĩa trang hương khói nguyện cầu/ Ôi Tổ quốc! Biên cương chưa yên giấc/ Đêm quặn lòng máu thịt Hoàng Sa/ Ngày đỏ mắt Trường Sa giông bão/ Lai bút, gươm giữ cõi, xây nhà (trong bài thơ Tổ quốc).
Một lần ra thăm Trường Sa, nhà thơ rất xúc động thấy những chàng lính trẻ tuổi mười tám, đôi mươi “chưa một lần hò hẹn”, vượt qua bao khó khăn, vất vả ngày đêm để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng Tổ quốc: Ôm lính đảo yêu tin bao gương mặt/ Tuổi đôi mươi lồng lộng biển trời/ Mắt trong vắt chưa một lần hò hẹn/ Đêm mơ còn nũng nịu gọi “Mẹ ơi!”
Để rồi, nhà thơ nguyện cùng nhân dân cả nước với lời hứa “Tất cả vì Trường Sa thân yêu!” với những vần thơ hào sảng: Muốn ôm ghì bãi san hô - chiến lũy/ Những pháo đài dâng sóng Bạch Đằng Giang/ Khi Đá Lát, Sinh Tồn, Yên Tử/ Lúc dịu dàng Tiên Nữ, An Bang… (trong bài thơ Thao thức Trường Sa).
Tổ quốc trong thơ Nguyễn Thế Kỷ là hình ảnh người bạn học thời phổ thông đã nằm lại ở nhánh sông nào đó của miệt vườn Cần Thơ trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước đã trở thành ngôi mộ sóng: Đâu rồi nơi bạn ta nằm lại/ Lục bình thành nấm mộ trên sông/ Màu hoa tím đỏ như màu máu/ Như ngọn đèn chong mấy lỡ làng… (trong bài thơ Chiều Cần Thơ).
Tổ quốc trong con mắt nhà thơ, nhà văn đa tài đôi khi cũng bay bổng đầy chất lãng mạn như men say tình yêu, truyền cảm hứng cho người đọc thêm yêu những cảnh sắc tươi đẹp, tên đất, tên người: Tráng sĩ năm nào sông Mã ơi/ Mơ chi kiều nữ chốn xa xôi/ Về đây trẩy hội hoa ban trắng/ Sơn nữ Mường La đẹp lịm người. (trong bài thơ Hội hoa ban).
Trong số 50 bài thơ của tập “Về lại triền sông” thì có tới 20 bài viết về quê hương, cha mẹ, nhắn nhủ các con không được phép lãng quên gốc rễ, cội nguồn. Những bài thơ này có khi được sắp xếp bên nhau với tần suất dày đặc, đậm chất suy tư, nghẹn ngào trong cảm xúc: “Miền Trung ơi”, “Xứ Nghệ”, “Tình quê”, “Cội nguồn”, “Quê ơi”, “Quê mình”, “Nghệ Tĩnh mình đây”… Tìm về quê là tìm về với chính mình, là được “rũ bụi thị thành, trong trẻo đất quê”, như lời ông bộc bạch trong bài “Tình quê”: Quê ạ, ta như người lạc bước/ Giữa ồn ào phố thị bon chen/ Chốn phù hoa người xa kẻ lạ/ Vẫn sắt se, góc ruộng ao làng.
“Thơ tôi, tôi tự ý thức, không có những đặc sắc, bứt phá, ít sự cách tân…”, nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ khiêm tốn khi chia sẻ như vậy trong lời mở đầu tập thơ. Ông dùng thơ để nói chữ tình mà chủ yếu là tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc được trải nghiệm, được nuôi dưỡng và lớn lên qua năm tháng đời người. Thứ tình chung thủy, ân nghĩa, chắt ra từ gan ruột, viết ra vừa đủ để cảm nhận, không sáo ngữ, không ồn ào cũng không quá kiệm lời. Một tấm lòng yêu tha thiết với miền Trung vì “Miền Trung cực khổ như định mệnh” như câu thơ ông đã từng viết. Mỗi lần về thăm quê đi qua cái ga xép, trái tim nhà thơ quặn thắt: Ơi ga Sy, ơi Yên Thành xứ Nghệ/ Chuyến tàu đi ngày ấy bây giờ/ Chở tuổi trẻ qua tháng ngày giông bão/ Đưa ta về cập bến lòng quê (trong bài thơ Ga Sy).
Trong hàng loạt bài thơ ông viết về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, bài thơ nào cũng tràn đầy cảm xúc, một tình cảm tha thiết với quê hương “gió Lào cát trắng”, một miền Trung gian khó nhưng kiêu hãnh, tự hào: Miền Trung ơi, làm sao xa người được/ Mấy chục năm xê dịch buồn vui/ Ăn miếng ngon, thu mình chăn ấm/ Mà tâm can chớp giật cuối trời (trong bài thơ Miền Trung ơi).
Tập thơ "Về lại triền sông" được in ấn công phu, trình bày đẹp, lại được họa sĩ Thành Chương minh họa bằng 20 bức tranh giàu ý nghĩa cho thơ nhưng ấn tượng nhất, cảm xúc nhất là để lại trong lòng người đọc một tâm hồn nghệ sĩ nặng lòng với quê hương, đất nước.
NGUYỄN VIẾT HIỆN