Việt Nam nâng hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Bài 1: Những yếu tố quyết định

30/10/2019 16:12

Theo đánh giá mới đây của Diễn đàn Kinh tế thế giới, chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam đã tăng lên thứ hạng 67, tăng 10 bậc và 3,5 điểm trong vòng một năm vừa qua.

Việt Nam cũng được ghi nhận là quốc gia có điểm số tăng mạnh nhất toàn cầu, nằm trong khu vực châu Á, Thái Bình Dương về nâng cao năng lực cạnh tranh vào hàng cao nhất thế giới. Đây là kết quả của những nỗ lực cải cách môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh ở Việt Nam; trong đó, có cải cách môi trường kinh doanh cắt giảm ngành nghề kinh doanh có điều kiện; cắt giảm và đơn giản hóa điều kiện kinh doanh; thay đổi phương thức quản lý chuyên ngành trong một số lĩnh vực, áp dụng giao dịch điện tử trong thực hiện các thủ tục hành chính và thanh toán không dùng tiền mặt… Mặt khác, Việt Nam cũng đã có những điều chỉnh chính sách phù hợp với các cam kết của các Hiệp định thương mại tự do.


Sản xuất linh kiện điện điện tử tại Công ty TNHH Minda (vốn đầu tư của Ấn Độ) cung cấp cho nhà máy của các tập đoàn lớn tại Vĩnh Phúc như Toyota, Honda, Piaggio

Hiệu quả từ các Nghị quyết

Xác định rõ vai trò quan trọng trong việc cải thiện kinh doanh đối với sự phát triển của nền kinh tế, Chính phủ đã có những nỗ lực quan trọng cải cách môi trường kinh doanh với hai nhóm giải pháp quan trọng chính là Nghị quyết số 19/NQ-CP (Nghị quyết 19) của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia được ban hành hàng năm kể từ năm 2014 đến nay và Nghị quyết số 35/NQ-CP năm 2016 (Nghị quyết 35) về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, để hướng đến mục tiêu đưa môi trường kinh doanh của Việt Nam vào nhóm 4 quốc gia hàng đầu khu vực ASEAN (ASEAN 4). 

Đánh giá kết quả sau 5 năm sau thực hiện Nghị quyết 19 và hai năm thực hiện Nghị quyết 35 cho thấy, các bộ, ngành, địa phương đã nhận thức ngày càng rõ trách nhiệm và tham gia ngày càng chủ động, tích cực để cải thiện điểm số và thứ hạng các chỉ số, tiêu chí cụ thể thuộc trách nhiệm quản lý của mình. Hàng nghìn điều kiện kinh doanh bất hợp lý đã được bãi bỏ; công tác kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất nhập khẩu đã được đổi mới cơ bản theo nguyên tắc đánh giá rủi ro, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm đối với nhiều loại hàng hoá; số lượng dịch vụ công trực tuyến tăng nhanh... 

Riêng trong năm 2018, đa số các bộ, ngành đã hoàn thành việc xây dựng các Nghị định về điều kiện kinh doanh và được Chính phủ thông qua. Theo đó, một số điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, thiếu rõ ràng đã được cắt bỏ; rút ngắn yêu cầu về thời gian; giảm các yêu cầu về số lượng; cắt bỏ và đơn giản hóa điều kiện kinh doanh về địa điểm và cơ sở vật chất... 

Theo báo cáo của các bộ, hầu hết kết quả cắt giảm điều kiện kinh doanh đạt hơn 50%, đạt mục tiêu theo chỉ đạo tại Nghị quyết 19. Tuy nhiên, trong thời gian tới, các đơn vị sẽ tiếp tục rà soát, đánh giá lại chất lượng các điều kiện kinh doanh cắt giảm. Từ đó, tiếp tục đề xuất, kiến nghị cắt bỏ các điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, không có hiệu lực, hiệu quả hoặc đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. 

Với sự vào cuộc của các bộ, ngành và địa phương, điều kiện kinh doanh của Việt Nam đã có những cải thiện nhanh, rõ nét, thủ tục gia nhập thị trường đã được đơn giản hóa và thuận lợi hơn, các doanh nghiệp đã tiết kiệm nhiều thời gian và chi phí hoạt động so với trước. 

Trong bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (WB), điều kiện kinh doanh năm 2016 của Việt Nam xếp thứ 82; song đến năm 2017, Việt Nam đã có bước nhảy khá dài, vươn lên vị trí 68 trong tổng số 190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm trước đó. Năm 2018, tuy thứ hạng về điều kiện kinh doanh bị giảm sút một bậc, nhưng 6 trong 11 chỉ số của Việt Nam được đánh giá tốt, rất tốt và có cải thiện nhanh. 

Theo đó, chỉ số khởi sự kinh doanh của Việt Nam năm 2018 xếp thứ 104 trong số 190 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 19 bậc nhờ cơ quan đăng ký kinh doanh cho phép công bố thông tin đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử và giảm lệ phí đăng ký doanh nghiệp. Chỉ số tiếp cận điện năng cũng tăng mạnh với 69 bậc so năm 2017; chỉ số nộp thuế và bảo hiểm xã hội tăng 36 bậc; chỉ số khởi sự kinh doanh tăng 17 bậc; chỉ số hiệu quả logistics tăng 25 bậc... 

Việc chỉ số đánh giá được cải thiện liên tục qua các năm đã giúp Việt Nam thu hẹp dần khoảng cách so với nhóm ASEAN 4 (Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philipines). Bên cạnh đó, cùng với Indonesia, Việt Nam là nước thực hiện nhiều cải cách nhất trong 16 năm qua, mỗi nước cùng có 42 cải cách. Tính riêng 5 năm thực hiện Nghị quyết 19, Việt Nam đã có 18 cải cách được ghi nhận; trong đó, các chỉ số được ghi nhận liên tục cải cách là chỉ số nộp thuế và bảo hiểm xã hội, tiếp cận điện năng, tiếp cận thông tin tín dụng liên tục. 

Điểm đến FDI chất lượng cao

Theo đánh gía của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) sở dĩ Việt Nam là quốc gia đạt được thăng hạng tăng mạnh nhất trong toàn cầu trong năm 2018 vừa qua chính là nhờ vào nỗ lực cải cách thể chế nói chung và đặc biệt là cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Biểu hiện rõ nhất là Việt Nam đang thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài FDI để trở thành một trung tâm thương mại khu vực với năng lực cạnh tranh cao nhất thế giới. 

Ông Brian David Hull, Tổng giám đốc ABB tại Việt Nam đánh giá, những chính sách hỗ trợ đầu tư của Việt Namđang hướng vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Với doanh nghiệp đầu tư công nghệ sẽ tạo điều kiện hỗ trợ các ngành công nghiệp khác về năng lượng, tự động hóa. Trong bối cảnh căng thẳng thương mại khiến các nền kinh tế trên thế giới trở nên bất ổn, thì Việt Nam lại nổi lên như một điểm sáng trong thu hút FDI với cả số vốn đầu tư cấp mới và giải ngân đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Đây sẽ là cơ hội để Việt Nam vươn ra thị trường toàn cầu qua các Hiệp định thương mại tự do. 

Nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài, mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20.8.2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 với mục tiêu thu hút dòng vốn đầu tư chất lượng. Điều này được đánh giá là cơ hội cho các Tập đoàn lớn của nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp nhìn nhận, vị trí của Việt Nam được nâng cao trong mô hình tăng trưởng nhờ vào việc thu hút các FDI có chất lượng. 

Cùng với đó là việc tạo ra các nhà cung cấp trong nước có chất lượng với một môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý thuận lợi tạo ra sự liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Việc Việt Nam cũng tập trung vào cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh hay đẩy mạnh đầu tư nguồn nhân lực và thúc đẩy tự do hóa thương mại đang làm càng tăng thêm tính hiệu quả, tính vững chắc về năng lực cạnh tranh của Việt Nam.

Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng suất lao động cho các doanh nghiệp, ngay từ đầu năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp, chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021 (Nghị quyết 02). Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết là nâng cao thứ hạng trong các xếp hạng quốc tế của WB, WEF, WIPO (Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới) và UN (Tổ chức Liên hợp quốc) về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh... nhằm thích ứng với nền sản xuất mới trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Cũng như các Nghị quyết 19 trước đây, Nghị quyết 02 sử dụng các xếp hạng của quốc tế về Việt Nam và lấy những thứ hạng đó làm thước đo, đồng thời cũng căn cứ vào nội dung các xếp hạng để tìm kiếm các giải pháp và mục tiêu tương ứng. Tuy nhiên, so với các Nghị quyết 19, Nghị quyết 02 có nhiều điểm mới căn bản về cách tiếp cận.

Trước hết, Nghị quyết xác định cơ quan chịu trách nhiệm với từng chỉ số về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh. Nếu các Nghị quyết 19 trước đây đưa ra hàng trăm giải pháp cụ thể, mỗi bộ có thể có hàng chục giải pháp do Chính phủ chỉ định thì năm nay, Chính phủ tăng cường trách nhiệm của các bộ được phân công làm đầu mối theo dõi việc cải thiện các bộ chỉ số và các bộ được phân công chủ trì, chịu trách nhiệm đối với các nhóm chỉ số, chỉ số thành phần. Nói cách khác, về cơ bản, Chính phủ đã trao quyền chủ động cho các Bộ trưởng, thay vì “cầm tay chỉ việc” giao giải pháp và nhiệm vụ cụ thể với từng chỉ số như trước đây.

Nghị quyết cũng nêu rõ những nhóm nhiệm vụ mà Chính phủ lựa chọn để ưu tiên chỉ đạo quyết liệt. Đó là, tiếp tục bãi bỏ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh một cách thực chất; tiếp tục cải cách toàn diện kiểm tra chuyên ngành; tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt; đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến; phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Mặt khác, ngoài các bảng xếp hạng đã được đề cập trong các Nghị quyết 19, Nghị quyết 02 sử dụng thêm một xếp hạng nữa về mức độ sẵn sàng của các quốc gia cho nền sản xuất tương lai, vừa được WEF thực hiện năm 2018; cùng hai xếp hạng chuyên ngành về dịch vụ hậu cần logistics và năng lực cạnh tranh du lịch. Những điều này sẽ đóng góp có ý nghĩa vào kết quả cải thiện năng lực cạnh tranh năm 2019 của Việt Nam.

Tạo sự đột phá

Báo cáo đánh giá về cải cách quy định về điều kiện kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, đến quý III/2019, về cơ bản, các bộ đã hoàn thành yêu cầu về cắt giảm số lượng điều kiện kinh doanh. Tuy vậy, qua rà soát cho thấy vẫn còn nhiều các điều kiện kinh doanh gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho các bộ thực thi đầy đủ, triệt để những cải cách về điều kiện kinh doanh đã thực hiện trong năm 2018. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế cho thấy, hầu hết các bộ mới chỉ đăng tải công khai các điều kiện kinh doanh sau khi cắt giảm mà chưa có hướng dẫn, tập huấn cho các địa phương hoặc đơn vị thực thi và doanh nghiệp về những cải cách cắt giảm điểu kiện kinh doanh; cũng như chưa theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu quả, hiệu lực thực thi những cải cách này.

Ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, những giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh thời gian vừa qua mới chủ yếu tập trung vào tháo gỡ rào cản gia nhập thị trường, giảm chi phí và thời gian tuân thủ trong các thủ tục có liên quan gia nhập thị trường; ưu tiên này là đúng đắn và cần thiết trong giai đoạn đầu cải cách kinh tế. 

Nhìn trên bình diện rộng hơn, bất cập của hệ thống quy định pháp luật, bao gồm quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi gia nhập thị trường cho thấy còn nhiều hạn chế; làm gia tăng rủi ro, hạn chế sáng tạo, gia tăng chi phí và tác động bất lợi đến doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa bảo vệ tốt quyền tài sản.

Để tạo ra sự đột phá trong cải thiện môi trường kinh doanh nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, trước mắt, hãy để các bộ, ngành tự rà soát để cải cách. Cùng với đó, Chính phủ phải tạo ra các chương trình cải cách và áp đặt thực thi xuống các bộ, ngành…

Trong thời gian tới, một mặt tiếp tục những giải pháp mà Chính phủ đã đề ra còn mặt khác tiếp tục thực hiện cải cách sâu hơn, toàn diện hơn nhằm nâng cao chất lượng của quy định về kinh doanh. Từ đó, tiến tới cắt giảm các quy định tạo rủi ro, gia tăng chi phí, hạn chế sáng tạo và tác động bất lợi đến doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, hoàn thiện chính sách cạnh tranh và thực thi tốt pháp luật về bảo vệ quyền tài sản.

Ông Phan Đức Hiếu cho rằng, cùng với tiến triển của cải cách thì áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp sẽ ngày càng cao, do rào cản pháp lý về gia nhập thị trường được gỡ bỏ, đồng thời sẽ nhiều hơn doanh nghiệp mới tham gia và cạnh tranh với doanh nghiệp hiện tại.

“Do đó, doanh nghiệp cần phải tự chủ động, quyết liệt nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt lưu ý là phải có chiến lược kinh doanh dài hạn, xây dựng thương hiệu, đặc biệt là nâng cao quản trị doanh nghiệp, giữ chữ tín trong kinh doanh. Đặc biệt, doanh nghiệp cần sớm xóa bỏ tư duy kinh doanh luộm thuộm, ngắn hạn; thay bằng tư duy dài hạn và chuyên nghiệp.”, ông Hiếu nhấn mạnh.

Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, thủ tục hải quan đã cải thiện nhưng ngành hải quan cần làm tốt hơn kiểm tra chuyên ngành; đồng thời, cần nâng cao hiệu quả cổng thông tin một cửa quốc gia và cần đặt niềm tin của doanh nghiệp vào hệ thống tư pháp…

Mới đây, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã yêu cầu các bộ, cơ quan tiếp tục rà soát, trình Chính phủ bãi bỏ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh không rõ ràng, không cụ thể, không khả thi, không còn cần thiết; đề xuất và đẩy nhanh tiến độ soạn thảo Luật sửa đổi các luật có liên quan để trình Quốc hội bãi bỏ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh được quy định tại các luật chuyên ngành theo phương án đã được phê duyệt. Bên cạnh đó, bộ này cũng yêu cầu các bộ, ngành thực hiện cải cách công tác quản lý, kiểm tra chuyên ngành theo đúng chỉ đạo của Chính phủ; cắt giảm thực chất 50% số mặt hàng thuộc danh mục mặt hàng quản lý, kiểm tra chuyên ngành.

Theo TTXVN


Bài 2: Xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch

(0) Bình luận
Việt Nam nâng hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Bài 1: Những yếu tố quyết định